Ông là người thầy của phương pháp làm
triết học và khoa học. Hơn thế, ông là tượng đài lẫm liệt của nhân cách: nhân
cách của người trí thức đích thực. Vậy là, ngay từ buổi bình minh của triết
học, phương Tây đã được thừa hưởng hai bảo vật vô giá: cách làm triết học và
cách sống triết học.
Ba trong một: trí thức, nhà nhân quyền,
triết gia
Socrates (khoảng 470 – 399 trước Công
nguyên) con nhà nghèo: cha làm đồ gốm, mẹ là bà mụ. Nghề của mẹ (và chắc cũng
của cha nữa) thường được ví với phong cách sống của ông: làm người “đỡ đẻ” và
hun đúc cho việc đi tìm chân lý. Học vấn uyên bác và đã từng là một chiến binh
dũng cảm, nhưng rút cục ông thấy công việc “hộ sinh tinh thần” mới thực là sứ
mệnh đáng cho ông dâng hiến trọn đời. Socrates không triết lý trong tháp ngà.
Ông lang thang giữa chợ Athens
(Hy Lạp) để bàn thảo, tranh luận với thanh niên, với những người “học thật” và
“học… giả”.
Tới 50 tuổi mới cưới vợ: bà Xanthippe,
nổi danh (và đồng nghĩa) với hình ảnh một bà vợ hung dữ, khó tính. Không phải
không có lỗi của ông: chẳng mang được đồng xu nào về nhà! Khác với những biện
sĩ đương thời bán trí khôn kiếm tiền, ông dứt khoát dạy miễn phí. Không rõ bà
hay cãi cọ có phải vì ông cương quyết không chịu… thương mại hoá giáo dục hay không,
nhưng “chân lý” sáng giá được ông khám phá là: “Nên lấy vợ! Gặp vợ hiền, bạn
được hạnh phúc; gặp vợ dữ, bạn thành… triết gia; đàng nào cũng có lợi!”
Thử thách thực sự đến với Socrates vào
năm 399 trước Công nguyên. Ông bị tố cáo tội “dụ dỗ thanh niên” và “báng bổ
thánh thần”, bị kết án tử hình bằng cách uống thuốc độc. Người như ông mà không
bị chụp mũ, tố cáo, lên án mới là chuyện lạ, nhưng thật ra, thời đó, án tử hình
cũng hiếm và ông có thể dễ dàng thoát chết bằng hai cách: xin chừa hoặc bỏ trốn.
Không thể được! Xin chừa là phản bội sứ mệnh bảo vệ chân lý. Bỏ trốn là phản
bội trách nhiệm công dân. Vậy, chỉ có con đường chết: ung dung uống thuốc độc
trước mặt bạn hữu và môn đệ, sau khi cùng họ… đàm luận triết học!
Platon, cao đồ của Socrates, đã tường
thuật quang cảnh bi tráng này một cách thật cảm động và nhất là đã ghi lại lời
tự biện hộ bất hủ của Socrates trước toà mà hậu thế xem “là bản tuyên ngôn đầu
tiên của tri thức” (Socrates tự biện,
Nguyễn Văn Khoa dịch, NXB Tri Thức, 2006). Hãy nghe tóm tắt vài lời giới thiệu
của dịch giả:
Tại sao lại bắt đầu với Socrates,
người chưa từng tự tay viết một chữ nào để lại hậu thế? Vì tuy không viết chữ
nào, nhưng như đức Phật, đức Khổng ở phương Đông, Socrates là triết gia gây
ảnh hưởng sâu đậm nhất lên lịch sử tư tưởng Tây phương.
|
– Socrate là triết gia đầu tiên, vì
“sống” đồng nghĩa với “triết lý”: “Thưa quý đồng hương,… khi nào còn chút hơi
sức, tôi sẽ không ngừng sống đời triết gia, khuyên nhủ và khuyến cáo quý vị
rằng phải tự xét mình và xét người, bởi vì sống mà không suy xét không đáng gọi
là sống”.
– Socrates là nhà nhân quyền đầu tiên,
vì ông xác lập tự do tư duy, tự do phát biểu, tự do sống cuộc đời mình chọn
lựa, như một thứ quyền con người, cao hơn bất kỳ bộ luật của một cộng đồng
người đặc thù nào: “Trước sự thể này, tôi chỉ cần thưa với quý vị: có trả tự do
cho tôi hay không, không thành vấn đề; Socrates này sẽ chẳng bao giờ làm chuyện
gì khác, dù phải bỏ mạng ngàn lần”.
– Socrates là người trí thức đầu tiên
theo nghĩa hiện đại, vì dám tin vào một thứ chức năng thiên phú: phê phán không
nhân nhượng xã hội ông đang sống: “Thật là sai lầm nếu quý vị nghĩ rằng chỉ cần
giết người là trốn thoát lời chê trách sống không suy xét. Cách loại bỏ sự kiểm
tra ấy vừa bất chính vừa bất khả thi, còn cách vừa chính đáng vừa dễ dàng là:
thay vì tìm cách bịt miệng kẻ khác, hãy tự tu thân sửa tính” (sđd, tr. 35-36).
Người đỡ đẻ tinh thần
Ta thường biết đến câu nói nổi tiếng
của Socrates: “Tôi biết rằng tôi không biết gì cả” và câu châm ngôn ông theo
đuổi suốt đời – “Hãy biết chính mình!” Nhưng, cống hiến lớn nhất của ông là đã
mang triết học từ trời xuống đất. Thay vì bàn chuyện vũ trụ cao xa như các bậc
tiền bối, ông quan tâm đến những vấn đề của cuộc sống con người. Vì ông tin
rằng mọi người ai ai cũng biết lẽ phải, sẵn sàng làm theo lẽ phải nếu được thức
tỉnh.
Do đó, nhiệm vụ của ông không phải là
rao giảng, thuyết phục, trái lại, bằng phương pháp và kỹ thuật đặt câu hỏi,
giúp mọi người tự tìm thấy lẽ phải, chân lý vốn còn bị che phủ bởi sự mê muội.
Dựa theo phương pháp hộ sinh của bà mẹ, Socrates tiến hành nghệ thuật đối thoại
bằng bốn bước:
– Giả vờ không biết để nhờ người đối
thoại giảng cho. Rồi bằng những câu hỏi trúng đích (có khi châm biếm, mỉa mai)
chứng minh rằng người đối thoại thật ra chẳng biết gì!
Khôn ngoan là kẻ biết điều mình không
biết!
Không biết không đáng trách, đáng trách
là không chịu học
Ông quan tâm đến những vấn đề của
cuộc sống con người. Vì ông tin rằng mọi người ai ai cũng biết lẽ phải, sẵn
sàng làm theo lẽ phải nếu được thức tỉnh.
|
– Tiếp theo là dùng phương pháp quy nạp
để xây dựng từng bước cái biết vững chắc. Đó là phân tích chính xác những ví dụ
cụ thể trong đời thường, từ đó rút ra những kết luận và định nghĩa tạm thời.
– Bằng phương pháp định nghĩa, làm cho
những khẳng định tạm thời ấy ngày càng tinh vi và chính xác hơn.
– Sau cùng, có được những định nghĩa rõ
ràng, phổ quát về vấn đề đang bàn.
Phương pháp đối thoại ấy trở thành cơ
sở cho sự phát triển triết học và khoa học của bao thế hệ về sau.
Ta học được gì từ Socrates? Bên cạnh
tấm gương chính trực và dũng cảm mà mỗi khi nản lòng, ta hãy nhớ đến để còn
vững tin vào giá trị của con người, còn có thể rút ra mấy kinh nghiệm hay:
– Biết nghe và biết hỏi là yếu tố cơ
bản để thành công. Nhưng, hỏi không phải để truy bức, để bắt bí mà để người
được hỏi có dịp suy nghĩ và tự trả lời: câu trả lời và giải pháp là do chính họ
tìm ra.
– Kiểm tra có phê phán sự hiểu biết của
chính mình.
– Nền móng của đối thoại là sự trung
thực và minh bạch, là sự tin cậy lẫn nhau: “Quan toà phải có bốn đức tính: lắng
nghe một cách lễ độ, trả lời một cách rõ ràng, cân nhắc một cách hợp lý, và
quyết định một cách vô tư”.
– Tránh mọi sự cực đoan: “Sự cực đoan
bao giờ cũng tạo ra sự cực đoan ngược lại. Thời tiết cũng thế, thân thể ta cũng
thế, nhà nước, quốc gia đều thế cả”.
– Không cần sống khổ hạnh (“ăn và uống
mới làm cho xác và hồn gặp nhau!”), nhưng nên bớt dục vọng và đừng thở than quá
mức: “Dồn hết mọi nỗi bất hạnh trên đời này lại rồi chia đều cho mỗi người,
chắc ai cũng xin rút phần của mình lại và vui vẻ bỏ đi”.
Socrates từ biệt chúng ta nhẹ nhàng: “Thôi,
bây giờ đến lúc chia tay. Tôi chết đây, còn các bạn cứ sống. Nhưng ai sướng, ai
khổ, chưa biết đâu đấy!” Socrates yêu quê hương, sẵn sàng chết chứ không nỡ bỏ
đi, nhưng luôn giữ cái nhìn “toàn cầu”: “Tôi không phải là người Athens hay người Hy Lạp, tôi là công dân thế giới!”
(Kỳ sau: Gai nhọn hay hoa hồng?)
* Tác giả đã nhận được nhiều câu hỏi và ý kiến trao đổi từ bạn đọc, ông
nhờ tòa soạn nhắn rằng xin cho ông được trả lời chung trong một bài viết sẽ gửi
tới SGTT trong thời gian sớm nhất.