Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

Bắc Đẩu của Trần Thiên Thanh do Nguyễn Hồng Nhung và Lâm Nhật Tiến hát.





Lời bài hát: Bắc Đẩu

Người bỗng trở thành vì sao bắc đẩu, lẻ loi tinh cầu đêm đen không dấu.
một tối chớm hẹn, đạn pháo chuyến mưa, cây cầu ngã nhỏ, anh qua anh qua.
Vì sao bắc đẩu trôi dạt đêm mưa.
Người xa cách người nước mắt tiễn đưa.
Đã thấy xót xa một lần anh đi, đã thấy xót xa từ ngày hôm qua
Đây thinh thông thiên thần lên tiếng hát, chiêu hồn người từ hỏa ngục dương thế.
Kia vòng trời ngọc bích đã thinh thang, ôi lời mời gọi anh bước chân sang.
Xin muôn năm như vì sao sáng đó, hỡi người đệnh mệnh là vì sa lẻ, dậy đi bắc, dậy đi bắc đẩu, bừng mắt dậy soi sáng thiên thu.
Người tên bắc đẩu, chết trận hôm nao, một áo quan đóng vội, một chuyến cuối phiêu du.
Có thấy dấu chiến sa, của người của hôm qua,có thấy chiếc mũ đen của người lạc trong đêm.


Vì sao bắc đẩu trôi dạt đêm mưa.
Người xa cách người nước mắt tiễn đưa.
Đã thấy xót xa một lần anh đi, đã thấy xót xa từ ngày hôm qua
Đây thinh thông thiên thần lên tiếng hát, chiêu hồn người từ hỏa ngục dương thế.
Kia vòng trời ngọc bích đã thinh thang, ôi lời mời gọi anh bước chân sang.
Xin muôn năm như vì sao sáng đó, hỡi người đệnh mệnh là vì sa lẻ, dậy đi bắc, dậy đi bắc đẩu, bừng mắt dậy soi sáng thiên thu.
Người tên bắc đẩu,chết trận La Vang, liệm xác 3 lần, ngọc bích cũng tan, chỉ còn vì sao thôi, chỉ còn vì sao thôi, cuộc đời 70 năm, người vội về xa xăm.

Nhà nước của dân, do dân, vì dân không được phép trấn áp dân


Nguyễn Trung

Xem và nghe các tin tức về vụ cưỡng chế thực hiện thu hồi đất cho dự án Ecopark ở Văn Giang, tôi không thể nén được trong lòng sự căm giận và nỗi hãi hùng. Căm giận vì không thể chấp nhận nhà nước của dân, do dân, vì dân lại hành xử với dân như vậy, hãi hùng vì thấy rằng hệ thống chính trị nước ta đã có được trong tay lực lượng vũ trang sẵn sàng thực hiện lệnh trấn áp như vậy đối với dân.
Dù sao tôi cũng vẫn phải thầm cảm ơn trời đất là đã không xảy ra đổ máu. Bởi vì nếu điều đó xảy ra, rồi nếu tình hình vuột ra ngoài mọi sự kiềm chế có thể, hoặc một sự khiêu khích nào đó cố ý hủy hoại sự kiềm chế có thể, rồi lan truyền trong cả nước, nhất là báo chí cho biết từ sau sự kiện Đoàn Văn Vươn tình trạng khiếu kiện đất đai của nông dân ngày càng căng thẳng và đang tiếp diễn ở nhiều nơi…, như vậy đất nước này sẽ đi về đâu? Trong khi đó quá trình phát triển kết cấu hạ tầng, công nghiệp hóa và đô thị hóa của đất nước chắc chắn sẽ còn đòi hỏi phải chuyển đổi tiếp một khối lượng rất lớn đất đai của nông dân cho sự phát triển này.


Việc huy động một lực lượng lớn (có người nói khoảng 500, có người nói khoảng 1000) công an vũ trang, các lực lượng không quân phục khác, một khối lượng lớn xe cộ, sử dụng cả vũ khí dù không gây sát thương để trấn áp dân cho mục đích cưỡng chế, lại xảy ra ngay sát thủ đô Hà Nội, báo động một chiều hướng phát triển vô cùng nguy hiểm cho đất nước, nhất thiết phải tìm cách ngăn chặn.
Đại diện chính quyền Văn Giang nói họ đã đền bù với giá cao nhất và làm đúng Luật, báo Người Cao tuổi nói cưỡng chế như vậy là trái Luật, người dân tại chỗ có đất bị cưỡng chế thì tố cáo chính quyền tham nhũng và cướp ruộng đất của họ. Vụ cưỡng chế đã thực thi xong, nhưng lòng dân tại chỗ chắc chắn không xong, lòng dân cả nước chắc chắn không yên.
Với tư cách là công dân và là đảng viên, tôi khẩn thiết yêu cầu các cơ quan trách nhiệm hữu quan cao nhất của Đảng, Quốc hội, Chính phủ cử những người có phẩm chất và năng lực với tính cách là các đại diện của mình về họp công khai với toàn thể các hộ dân các xã ở Văn Giang có đất đai bị thu hồi trong vụ cưỡng chế này để tìm hiểu tại chỗ sự việc. Các đại diện này vừa chứng kiến, vừa cùng tham gia với các hộ dân liên quan này đối chất trực tiếp với đại diện chính quyền Hưng Yên – Văn Giang, để tất cả các bên cùng nhau  tìm ra đúng, sai, những kết luận hay quyết định cần rút ra. Cuộc họp này cần có đại diện các báo chí cả nước tham dự và được loan tải trung thực, đầy đủ cho cả nước biết, cả nước cùng rút kinh nghiệm.
Một cuộc họp như thế nên làm ngay.
Chỉ có làm như thế, mới phòng ngừa được hiểm họa.
Chỉ có làm như thế, mới hy vọng bước đầu vãn hồi được lòng dân đối với chế độ chính trị của đất nước mà chính người dân nước này đã không tiếc xương máu hy sinh vì nó, trong đó có nhân dân Văn Giang.
Ngoài ra, muốn hay không, sự kiện cưỡng chế bằng bạo lực vửa qua như vậy ở Văn Giang là một thách thức trực tiếp đối với nghị quyết Hội nghị Trung ương 4.
Hà Nội, ngày 26-04-2012
N.T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Platon và việc thực hiện ý tưởng


SGTT - Với Platon, ý niệm mạnh hơn thực tại, vì nó định hình thực tại. Phẩm chất đích thực và viễn kiến có căn cứ là bảo bối cho mọi sự ứng xử. Đó là thông điệp then chốt nhất mà ông dành cho hậu thế.
Dụ ngôn hang động
Các tù nhân bị trói chặt trong hang động, mắt chỉ được phép nhìn thẳng. Do không thể cựa quậy, tầm nhìn của họ bị giới hạn vào vách hang trước mặt. Sau lưng họ là một đống lửa, giữa đống lửa và nhóm tù nhân là những vật thể được giương cao qua lại để hắt bóng lên vách động. Các tù nhân không thể thấy đống lửa và những sự vật ấy, và, theo thói quen lâu ngày, xem các hình bóng trên vách hang là thực tại. Giả sử ta giải thoát cho một tù nhân, người ấy không hẳn đã vui mừng, trái lại, thấy đau đớn vì bị loá mắt trước ánh sáng mặt trời. Phải lâu lắm người ấy mới làm quen với sự thật, nhận ra rằng mặt trời mới là nguồn sáng và nguồn sinh lực cho vạn vật. Thấm thía thân phận của những người bạn tù, người ấy trở lại hang động để kể lại sự thật. Thay vì hoan nghênh, những người bạn tù – do thói quen dần biến thành sự xác tín, thậm chí cuồng tín – đã phản đối kịch liệt, thậm chí còn muốn giết chết người bạn tốt bụng ấy nữa. Đó chính là số phận bi thương đã dành cho Socrates, như ta đã biết.

Minh hoạ: Hoàng Tường
Câu chuyện ấy – nổi tiếng với tên gọi “dụ ngôn hang động” – được Platon kể lại trong tác phẩm Cộng hoà cũng nổi tiếng không kém. Câu chuyện muốn nói: biết được sự thật đã khó, chịu đựng được sự thật còn khó hơn! Vì thế, theo ông, nhiệm vụ của triết gia là phải nhận rõ “thân phận của con người” (conditio humana), và… đừng sợ chết để nói lên sự thật. “Này bạn Glaucon thân mến, những khó khăn của nhà nước, vâng, của toàn bộ nhân loại sẽ không bao giờ kết thúc, cho tới khi triết gia lên làm vua hoặc những kẻ tự xưng là vua hiện nay hãy trở thành những triết gia đích thực và trung thực”. Ước vọng ấy của Platon khó trở thành hiện thực, nhưng điều ông muốn nói không vì thế mà mất đi giá trị đáng suy ngẫm.
Platon (427 – 347 trước Công nguyên) – học trò của Socrates, thầy của Aristoteles – là khuôn mặt trung tâm của triết học và tư tưởng Tây phương. Alfred Whitehead, triết gia và nhà toán học nổi tiếng người Anh thậm chí còn bảo: toàn bộ lịch sử triết học Tây phương “không gì khác hơn là những cước chú cho triết học Platon”. Xuất thân quý tộc, nhưng ông không chịu nổi thói cơ hội của bọn cầm quyền Athens. Chúng đã phạm tội ác lần thứ nhất đối với triết học khi xử tử Socrates. Cái chết bi tráng ấy của người thầy đã ám ảnh ông suốt đời, thôi thúc ông đi tìm những phương cách để nâng cao chất lượng lãnh đạo. Ông lập “viện Hàn lâm”, cơ sở giáo dục tự do đầu tiên ở phương Tây, để đào tạo được những người học trò tầm cỡ như Aristoteles. Aristoteles – thầy của Alexandre Đại đế – có lúc đã đành rời bỏ Athens sau cơn biến loạn, vì không muốn quê hương mình “phạm tội ác lần thứ hai đối với triết học”! Mỗi người chọn một cách hành xử cho riêng mình, nhưng đều thống nhất ở nhiệm vụ hàng đầu: đi tìm chân lý. Trên con đường ấy, trò không nhất thiết phải phục tùng thầy. Aristoteles là bằng chứng. Hãy nghe ông nói: “Platon là bạn tôi, nhưng tôi phải làm bạn với chân lý trước đã!”. “Bạn với chân lý” chính là từ nguyên của chữ “triết học” trong ngôn ngữ Tây phương: philo-sophia.
Khi quyết định việc gì, phải nghĩ đến lợi ích của toàn cục. Và cơ quan lãnh đạo phải trở thành chỗ hiện thân cho lý tưởng để mọi người có thể tin được.
Ý niệm mạnh hơn cả thực tại
Theo Platon, thế giới đích thực gồm những ý niệm, tức những bản chất có giá trị vĩnh hằng và bất biến, là cơ sở cho thế giới khả giác của chúng ta. Chẳng hạn, những con vật trên thế gian chia sẻ cùng một ý niệm “động vật”. Dù khác nhau về loài, con voi và con kiến đều là động vật. Ý niệm lý tưởng ấy chỉ được hiện thực hoá một phần trong thế giới khả giác của chúng ta như những bản sao mờ nhạt. Không một sự vật cá biệt nào có thể là hiện thân trọn vẹn của ý niệm về nó. Dù tán thành hay không, ta cũng phải đồng ý rằng: cho dù có đạt tới đỉnh cao nào đi nữa, vẫn không có lý do gì để tự mãn, ngủ quên trên thành tích và không nỗ lực cải thiện nó!
Học thuyết của Platon về ý niệm, thoạt nhìn có vẻ xa vời và khó tin – người ta gọi ông là ông tổ của thuyết duy tâm khách quan – nhưng quả đã mang lại nhiều gợi hứng thú vị cho suy nghĩ:
– Ngày nay, không ai còn có thể xem nhẹ những “yếu tố” hay những “sức mạnh mềm”! Chính chúng mang lại những lý tưởng, những giá trị hầu như vĩnh cửu để con người vươn tới. “Tắt lửa lòng” trước những lý tưởng và giá trị, con người chỉ còn là những động vật thảm hại. Socrates sẵn sàng trả giá bằng chính cuộc đời mình cho những lý tưởng và giá trị ấy.
– Với Platon, các ý niệm cũng không phải là những “sáng kiến” chủ quan đến từ một cái “tâm” hay một cái “tầm” vô căn cứ nào đó. Trái lại, chúng phải là kết quả của lao động trí tuệ, vì không thể tìm thấy chúng một cách dễ dàng trong đời thường. Không một cơ quan, tổ chức hay xã hội nào có thể trường tồn mà không tìm ra và bảo vệ những giá trị cốt lõi.
– Không phải ngẫu nhiên khi Platon – cùng thầy của mình là Socrates – sử dụng phương pháp đối thoại và quy nạp, bởi trên bình diện vật chất, sự vật thường không phải giống như nó biểu hiện. Con người phải tìm cách cùng nhau đưa chân lý ra ánh sáng, bằng con đường thu thập thông tin chính xác và xử lý chúng bằng sự kiểm tra toàn diện. Xã hội thông tin ngày nay càng xác nhận yêu cầu ấy.
– Platon, hơn ai hết, tin vào sức mạnh kiến tạo của những ý niệm và vào sự thống nhất giữa thế giới quan, tư duy và hành động. Vì thế, ông đặc biệt quan tâm đến chất lượng và phong cách lãnh đạo. Không có bài bản nào có sẵn để điều tiết công việc ấy cả, ngoài việc dày công xây dựng một văn hoá tổ chức và văn hoá cá nhân, vừa bám rễ trong thực tại, vừa chắp cánh cho tương lai. Ai xem thường nguyên tắc này, sẽ tự mình đánh mất lòng tin cậy nơi người khác: “Sự bất công ghê gớm nhất là sự công bằng giả tạo, đạo đức giả”.
– Platon cũng rất tiến bộ trong cách nhìn về giới tính: “Này bạn, không có nghề nào phù hợp cho phụ nữ chỉ vì họ là phụ nữ, cũng không có nghề nào là phù hợp cho đàn ông chỉ vì họ là đàn ông. Năng khiếu được chia đều cho cả hai phái”.
– Con người còn là sinh vật có ý thức trách nhiệm: “Con người không phải được tạo ra cho riêng mình mà còn cho tổ quốc và đồng bào của mình nữa”, “khi phấn đấu vì hạnh phúc của người khác, ta vun bồi hạnh phúc cho chính mình”.
– Lý tưởng của ông trong việc tổ chức xã hội là phải phân tích thực trạng chính xác, đồng thời có viễn kiến cho một tương lai tốt đẹp hơn. Khi quyết định việc gì, phải nghĩ đến lợi ích của toàn cục. Và cơ quan lãnh đạo phải trở thành chỗ hiện thân cho lý tưởng để mọi người có thể tin được. Vì thế, ông vững tin vào sức mạnh của gương mẫu: “Liệu người ta có thể ái mộ mà không noi gương?”
Tóm lại, với Platon, ý niệm mạnh hơn thực tại, vì nó định hình thực tại. Phẩm chất đích thực và viễn kiến có căn cứ là bảo bối cho mọi sự ứng xử. Đó là thông điệp then chốt nhất mà ông dành cho hậu thế.
Bùi Văn Nam Sơn
Kỳ sau: Protagoras và khai minh Hy Lạp