Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2007

NGUYỄN LỆ UYÊN

NGUYỄN LỆ UYÊN

VỀ TUY HÒA

“Ngày12 tháng 5...

Anh,

Về tới nhà đã xâm xẩm tối. Tắm rửa xong, ngồi nói chuyện với cả nhà một lát thấy người mỏi mệt hung, bỏ vào phòng nằm. Tưởng có thể nhắm mắt ngủ ngay, nhưng dư âm của những ổ gà, bụi đường và chiếc xe đò cọc cạch rung lật bật trên đoạn đường dài đã chống hai mí mắt lên, không tài nào ngủ được. Thao thức và nghĩ ngợi đủ thứ chuyện, nghĩ lung tung như cách để gần anh, thấy như có anh còn ở bên cạnh, đến nỗi đứa em em ra ngã Năm mua tô cháo gà giờ đã nguội ngắt.

Ngoài phòng khách có tiếng cười lích nhích của mấy đứa em, rồi là tiếng lào thào: “Cái bà này mới lạ, làm như ngoài này không có bánh mì kẹp thịt hay sao mà phải vác từ trỏng về?”. Chúng nó đâu có biết những điều chúng vừa khám phá là do anh bày ra. Anh lo em đói giữa đường, lo xe hỏng đâu đó trên quãng đường vắng. Sự chỉn chu hình như đôi khi cũng hơi phiền phức, anh nhỉ? Duy chỉ có chai dầu Gió Xanh là hết vèo ở đoạn Rừng Lá. Còn hai chai nước thì khi xe đổ đèo Cả mới thanh toán một cách gọn ghẽ bằng cách thò đầu ra ngoài cửa rửa mặt cho tỉnh táo, cho sạch chút son phấn làm duyên. Không rõ nếu như có anh ngồi bên cạnh thì em có can đảm xóa đi cái duyên dáng tạm ấy không? Mà duyên gì được nữa kia chớ? Mấy trăm cây số va qua đập lại thiếu điều gãy cả xương sườn xương sống, mọi thứ trong bao tử cứ tưng tưng đòi nhảy ra ngoài tới phờ phạc thì đến Hằng Nga cũng biến thành Chung Vô Diệm anh ơi!

Đấy, đường ra xứ em nó nhiêu khê là vậy, thử hỏi anh có can đảm trèo tam tứ núi, lội thập lục sông như khi ngồi trong La Pagode anh thề thốt không? Các cụ thường bảo đám đàn ông con trai khi ngồi bên cạnh phụ nữ luôn đầu môi chót lưỡi. Em mong anh không lấy cái thuộc tính đàn ông bị đả kích kia mà đối xử với em. Dòm bộ dạng anh cũng cảm ra được là anh thuộc mẫu người thiệt thà, chắc bụng, chứ không như đám... Ui, em xin lỗi; chỉ là lỡ tay viết ra chớ không có ý định ví von này nọ. Em có thói quen khi viết sai thì cứ để nguyên vậy chớ ít khi dập xóa, đấy cũng là tính xấu không sửa chữa được, dễ gây hiểu lầm.

Bữa ra bến xe lấy vé, anh mua những hai chiếc. Em hỏi mua chi đến hai vé? Anh nói anh cùng đi để hộ tống em khỏi bị bắt cóc và thứ đến là “cho biết xứ em có đẹp bằng em không?”. Mô Phật! Mệnh đề thứ nhất có vẻ như anh bị ám ảnh bởi những hoang tưởng của phim ảnh mấy ông đạo diễn dựng lên. Còn mệnh đề thứ hai thì thiếu cả hai điều kiện ắt có và đủ. Ví như em để anh cùng đi thì sao nhỉ? Em sẽ ăn nói sao với ba mẹ và mấy đứa em em? Một thành viên lạ hoắc tự dưng xuất hiện bên cạnh con gái mình, chị mình? Họ sẽ nghĩ chắc em hư hỏng lắm khi khăn gói vào Sài Gòn ăn học? Thiệt kinh khủng nếu chuyện ấy xảy ra. May mà em kịp giải thích để ngăn anh lại. Và may là anh cũng chịu khó ngồi nghe lời giải thích vòng vèo không lấy gì làm vui vẻ với anh. Mà nếu như anh thiệt bụng, ngay thẳng thì sớm muộn gì anh không biết, chớ chi mà gấp gáp? Anh không nghe câu thành ngữ “dục tốc bất đạt” muôn thuở kia sao?

Mùa này, mỗi ngày đang bắt đầu nóng dần lên, nóng từ từ như một bếp lò mới nhen lửa lúc đầu cho tới khi than đỏ hực lên. Suốt dọc miền Trung chỗ nào cũng như vậy cả: nóng gắt và Nam cồ Nam mái. Mấy nơi khác em chưa tới nên chưa biết, còn Tuy Hòa tới mùa này gió Nam thiệt dữ dội, thấy cả gió cuộn lên trước mắt. Gió đùa giỡn với những chiếc lá rụng cuốn tròn chấp chới những cánh chim tập bay khắp các ngách phố lớn nhỏ, những mẩu giấy rác... ngoắc ngoải vờ vật tung lên, hạ xuống. Gió hốt cát xáng rào rào vào những cánh cửa sắt khép hờ, bay lượn trên mâm cơm. Gió thổi thốc cuộn xoắn dọc hai triền cát sông Đà Rằng tung bụi mù mịt cả một đoạn sông dài. Mọi vật đều được thoa một lớp bụi phấn gây nhột nhạt như lấy bông cỏ may quẹt gan bàn chân, ngoáy vào lỗ mũi vậy. Mẹ em kể hồi nẳm gió Nam cồ còn bốc cả mái ngói vảy ném xuống sân nói chi đến mái rạ mái tranh! Còn ba em thì nói cũng nhờ ngọn gió đó thổi ba bay tuốt vào cầu Bóng để gặp má. Cái thứ gió lạ lùng vừa lãng mạn, thơ mộng vừa gây khó chịu cho lắm người. Mà anh đâu hình dung Nam cồ Nam mái là gì phải không? Nam mái là hiu hiu như kiểu người con gái hờn dỗi. Còn Nam cồ thì hung hãn hơn gấp trăm lần, như thể trận lôi đình của người cha có đứa con hư hỏng vậy. Nói vậy chớ nó chỉ thổi tung chừng vài tiếng thôi, lúc nửa đêm một chặp rồi nửa buổi sáng về trưa một chặp. Còn lại đều lặng lờ yên ả như chưa từng xảy ra chuyện gì cả. Mà tự dưng sao lại đem cái gió tào lao kia nói với anh nhỉ? Đâu có gì nhè nhẹ như ngọn heo may đất Bắc hay ngọn gió chướng quê anh? Cái loại gió ác liệt này đôi khi làm tụi con gái bọn em đến là mắc cỡ mỗi khi tới lớp và tan trường: gió thổi lật tà áo dài phơi ra chút da thịt chỗ thắt lưng, rồi thì cuộn thốc muốn lật tung chiếc quần mặc bên trong. Tay líu quíu chưa kịp khép vạt áo thì hàng trăm cặp mắt bọn con trai dán vào như muốn lột trần ra. Một cảm giác gai rợn cứ len nhẹ từ đầu xuống chân rồi lộn ngược trở lên cho tới khi giữ được vạt áo căng phồng một cách tạm bợ. Cái ngọn gió hung hăng, nóng nảy kiểu Trương Phi ấy cũng góp phần làm tàn phai nhan sắc nhiều phụ nữ: phấn son nhòe với bụi đường, quần áo như dày thêm vài ly một cách nhếch nhác, còn đầu tóc thì rối nùi như đụn rơm khô, như những vạt rơm gà bươi, vì vậy tụi em mỗi khi ra đường đều có cái lược để gỡ tóc. Đang đi cũng đưa lược lên chải, đứng cũng chải, ngồi cũng chải. Thiệt phiền phức. Vậy mà nhiều người mới tới Tuy Hòa, mới chạm tới ngọn gió lạ một chút thì có cảm giác như vừa khám phá ra điều mới lạ, thấy nó đẹp. Đẹp bởi cách nó thổi dọc ngang phóng túng như một gã hành giả trên đường đi tìm sự chứng ngộ cho riêng mình, như một tên lang bạt kỳ hồ trên con đường thiên lý, giày vẹt gót, áo sờn vai; như có một ông nhà thơ kêu lên “Ơi cái gió Tuy Hòa... Cái gió chuyên cần và phóng túng”. Còn em, mỗi năm chỉ giáp mặt với nó một lần thôi mà đã thấy hãi. Em sợ kinh khủng. Mọi người cũng sợ nhưng không thể tránh mặt mà phải chung đụng với nó suốt cả tháng trời. May mà nó không kéo dài lâu để con gái Tuy Hoà vẫn tròn nụ cười, má hồng, mắt lúng liếng...

Không tài nào nhắm mắt được, nên ngồi viết lung tung. Viết để kéo cơn buồn ngủ xích lại gần và kéo anh xích gần hơn với khoảng cách cơ học dằng dặc.

Đầu óc phờ phạc và tay mỏi rồi. Em đi nằm đây.

Ngày 14 tháng 5...

Anh,

Tạm nghỉ một ngày để dưỡng tâm. Chính xác là để phục hồi cơ thể vốn dĩ không lấy gì làm mạnh mẽ như cánh đàn ông các anh, để chịu đựng mọi thứ gian khổ trên đời, dù đó là thứ gian khổ cấp tính.

Hôm qua và sáng nay anh làm những gì, đi những đâu hay là ngồi gõ trước máy chữ? Riêng em, sau một ngày được nghỉ ngơi thấy người khoẻ hẳn ra. Lũ bạn học cũ hay tin em về, lập tức tới rủ đi ăn cháo hàu kêu là “tẩm bổ cho con bé ốm yếu” rồi đi rảo phố. Anh biết không, mới vắng chừng một năm nhưng khi trở về thì thành phố đã khác trước nhiều, cứ như trái bầu trái bí lớn thêm mỗi sáng. Phố xá sầm uất, nhà cửa đủ mọi kiểu dáng: cao ngất, kênh kiệu của phương Tây; ẩn núp trong vườn cây lá um tùm, trầm mặc phương Đông... Đi qua chừng vài đường phố, em kêu nhỏ bạn: “Ê, cứ chạy vòng vòng kiểu này thì biết bao giờ mới hết, thôi thì chịu khó leo đốc lên núi Nhạn có thể nhìn khắp lượt mà không phải hít bụi đường”. Nó đồng ý và quay xe chạy lên đầu phố. Chiếc xe máy cà tàng chở hai đứa, không đầy tạ nhưng ì ạch, phì phèo như con ngựa già. Có lúc em phải nhảy xuống xe phụ đẩy một đoạn ngắn, muốn hụt hơi. Lên tới đỉnh mồ hôi dầm dề, ngồi bên phía bóng mát nền tháp há miệng mà thở, bẻ cành lá phe phẩy làm quạt. Biết vầy, hồi nãy cứ chạy lòng vòng coi bộ khỏe hơn nhiều.

Nói thế chớ lên đứng trên độ cao 70 mét dòm xuống thành phố bên dưới thấy y như bức tranh đẹp, giống như hồi anh dẫn em vào Gallery ở dường Tự Do xem tranh Phố Phái hay Phái Phố gì đó. Thành phố của em đẹp đến mê hồn, rực rỡ trong nắng sáng trong vắt. Bên này là chân núi dựng đứng, bên kia thì xoãi ra gần đụng đường quốc lộ như cái với tay níu giữ người thân nán lại vài phút trước khi rời căn nhà, góc phố để đi xa. Con sông Chùa ngắn và nước ửng xanh màu ngọc bích, vắt ngang qua nửa ngực thành phố in hệt nét chì tô xanh quầng mắt, như tấm khăn của người thiếu nữ vắt qua vai thả rơi lưng lửng xuống ngực; xa hơn chút, về hướng Bắc, ngọn Chóp Chài vút lên như núm vú căng tròn tuổi dậy thì. Mùa này nó là chiếc vú phơi trần nhưng mùa mưa thì cứ như có chiếc khăn trắng thả trễ tràng phía dưới. Đằng Đông, biển trải dài mênh mông mượt màu cỏ non, còn phía Tây thì những gốc rạ màu đất kéo thành vạt rộng, làm nền cho những rặng cây xanh thấp thoáng xa xa. Phố xá thì màu đỏ mái lợp ngạo nghễ nhô cao hơn những mái nhà màu xám rêu. May mà đường phố có những tán cây xanh, níu giữ màu đỏ choàng vai màu xám mốc kia chứ tuyền một màu đơn điệu thì coi bộ chướng mắt. Em chẳng biết tí gì về màu sắc hội họa như anh, nhưng xem ra những nhận xét này không sai mấy. Còn nữa, trước mắt em là cây cầu dài thườn thượt nối hai bờ con sông Đà Rằng. Giữa hai con sông là cồn phù sa tạo thành làng hoa Ngọc Lãng bốn mùa rực rỡ sắc màu. Cái tên Ngọc Lãng đẹp và coi bộ lãng mạn thiệt anh hẻ? Còn cây cầu bắc qua sông Đà Rằng đó dài tới hăm mốt nhịp lận, mà có ai đó đã ứng tác ra “cầu dài hăm mốt nhịp, anh theo không kịp, đợi anh với em ơi!?”. Xạo, làm gì mà “anh” không theo kịp “em”? Thiệt là nhức đầu vì ở đâu cây cầu cũng sinh chuyện, nào đếm cầu mấy nhịp lòng dạ sầu thương bấy nhiêu, nào là qua cầu gió giựt bay mất áo. Cây cầu đâu có sinh sự như vậy? Chỉ tại con người thôi. Nhưng chuyện gió giựt tung áo thì em đã viết cho anh ở đoạn trước. Giờ đứng trên đỉnh núi, gió chỉ hiu hiu, phía dưới là dòng sông lặng lờ, coi bộ hiền lành kiểu như Sơn Tinh và Thuỷ Tinh trong thời gian hưu chiến vậy.

Nhưng mà, nói gì thì nói, dân Tuy Hoà em rất tự hào có cây cầu dài nhất miền Trung. Cầu đường bộ và đường sắt cặp song song nhau mà hôm trước em chỉ cho anh trên tờ lịch treo tường. Và anh buột miệng: “May, chỉ là hai cây cầu chớ chàng và nàng thì thiệt là tội nghiệp!”. Em cãi “trên thực tế đầy ra đấy chớ không có sao?”. Anh cười cười mà không nói gì. Anh biết không, chếch lên một đoạn ngắn lại một cây cầu dài mới bắc qua sông Đà Rằng đâu hồi năm ngoái, đứng lẻ loi dòm xuống hai cây cầu phía dưới như than thở cho số phận cô đơn của mình. Mấy năm trước cầu Đà Rằng dưới này là nơi hóng mát của người dân trong thành phố, hẹn hò của các cặp tình nhân khi mặt trời chìm khuất sau dãy núi phía tây. Mùa hè, gió từ sông đưa lên mát rượi. Những đêm giữa tháng bọn em hay tới đứng trên vai cầu nhìn mặt trăng nhô lên từ phía biển Đông như thể đó là viên hồng ngọc của nàng tiên cá nâng lên khỏi làn nước xanh thẳm. Ban đầu, trăng to bằng chiếc bàn tròn hai đứa mình hay ngồi uống cà phê những sáng chủ nhật ở đường Nguyễn Du, soi một quầng sáng lóa vàng hực màu trái cam chín. Quầng sáng ấy kéo dài từ từ loang rộng những vạt vàng sóng nhấp nhô còn mặt trăng thì nhỏ lại, tròn như cái cão (rổ nhỏ) đựng kim chỉ của bà nội em, rồi nhỏ dần như trái banh như thể những mảnh vàng sáng chia sớt cho mặt nước? Những hình ảnh ấy cứ dội vào tâm trí em như những cuộn sóng đập vào bờ đá khiến cái ý nghĩ ngô nghê này cứ ám ảnh em hoài, tới tận bây giờ vẫn không đẩy ra khỏi đầu em được, không hiểu vì sao?

Anh biết không, nhiều người hay nhái từ “nẫu” địa phương em. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Cái lớn là một số khá đông bạn đồng lứa cũng thẳng thừng quay lưng lại với “nẫu”, xấu hổ mỗi khi có ai đụng chạm đến “nẫu”. Em chưa có dịp dùng từ này với anh, nhưng em luôn yêu nó vô cùng. Mỗi khi nhớ quê, em hay xuống Tân Bình ngồi nói chuyện với mấy người già gốc Phú Yên. Họ vì cuộc sống mà phải bỏ xứ vào đây, nhưng họ không bỏ giọng nói, bỏ những thói quen trong mọi sinh hoạt thường ngày. Tất cả như đã thấm đẫm vào trí óc họ từ những gốc rạ vùng lúa Tuy Hòa, từ những con thuyền đánh cá ở Lò Ba, Mỹ Á, Sông Cầu. Cứ như thể em đang hít thở không khí ở miền quê yên tĩnh, nơi em sinh ra và lớn lên. Có bữa ra chợ cầu Ông Lãnh mua cá, gặp bà cụ đang trả giá. Khi nghe bà cụ kêu lên “me chay, mắc dữ be... e” làm em giật thót tim. Từ “be” thoạt nghe như tiếng than nhưng không phải là lời than thở mắc rẻ, mà còn hàm chứa sự ngạc nhiên, dò hỏi, một chút giễu cợt trong sự phân vân thường thấy ở các bà nội trợ phải lo toan hàng trăm thứ cho gia đình, chồng con... Gặp người đồng hương, em mừng quýnh. Một già một trẻ hỏi han, nhắc nhở đủ thứ chuyện bên ly nước mía đầu đường. Khi chia tay bà ấy còn dặn “bữa nào huỡn cháu ghé lại nhà bác chơi”. Chiếc xích lô chở bà cụ đi xa, nhưng quanh quẩn bên em vẫn cứ ong ong những từ “me chay, dẫy na...” như thể đang hít mùi thơm khói đốt đồng căng đầy lồng ngực với sự khám phá thiệt mới lạ hương khói xa xôi ấy...

Cứ để ý đi, khi nào anh ra bến xe bến tàu đón người thân, hễ thấy ai kè kè bên nách gói giấy tròn căng phồng, khổ bằng chiếc sàng thì chắc chắn đó là dân Phú Yên trăm phần trăm. Họ mang quà cho người thân đấy! Có nhiều thứ khác quý hơn, nhưng đi đâu họ cũng mang chồng bánh tráng, dường như đó là niềm tự hào của mọi người bất luận giàu nghèo, khi được sở hữu cánh đồng lúa mênh mông và phì nhiêu của Tuy Hòa, đã nuôi dưỡng họ, nuôi dưỡng cả một vùng rộng lớn chung quanh. Đó là biểu tượng của hột gạo trên một xứ sở từng chịu nhiều khổ đau, vất vả mà dân quê em đã từng nếm trải, khổ đau và hạnh phúc trong chiến tranh và hòa bình. Mà năm rồi em không mang vào cho anh chồng bánh tráng là gì? Khi nướng phồng lên thì là tình là nghĩa, khi nhúng nước cuốn là dẻo thơm niềm hạnh phúc tròn đầy đó anh ơi. Mẹ em nói vậy.

Ngày 15 tháng 5...

Anh thân yêu,

Thư hôm qua em quên một chi tiết về dòng sông chảy ngang qua thành phố. Cùng một dòng chảy nhưng có tới hai tên gọi khác nhau. Đoạn từ đập Đồng Cam ngược lên thượng nguồn, đâu tận Phú Bổn, Cheo Reo gọi sông Ba, còn xuôi về phía hạ lưu thì là Đà Rằng. Dầu sông Ba hay Đà Rằng gì đi nữa thì con sông này chỉ có một dòng chảy và như cái bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân trong huyền thuyết “đồng bào” của dân tộc. Mùa mưa, nước ơi là nước! Nước mênh mông như biển cả. Nước cuồn cuộn đổ ra biển, đỏ quạch phù sa. Nước gầm réo dưới chân cầu thiệt là hung hãn, cuốn trôi tất cả những gì trên đường chúng đi qua, tưởng chừng như chiếc cầu dài ngằn ngặt này cũng bị đẩy phăng ra biển trong phút chốc. Cũng may, sự hung hãn này chỉ diễn ra có vài bữa thôi và xem ra cũng có ích: nó mang lớp phù sa dày đặc bồi thêm lớp màu mỡ cho cánh đồng “thẳng cánh cò bay”.

Nhớ hồi năm 93, lúc đó em còn là đứa trẻ con. Mấy bữa trước mưa dầm dề như cầm chĩnh trút nước vậy. Đến đêm nước ở đâu bò vào khắp nơi, vào các đường phố, bò lên thềm, nhảy tọt vào nhà, dâng lên cao đuổi bọn em chạy lên gác. Đứng ở cầu thang nhìn xuống thấy nước tới đầu gối rồi bò lên tới thắt lưng, rướn lên tới gần ngực ba. Điện bị cắt, đèn đóm tối thui. Có tiếng người la ơi ới, tiếng gõ xoong nồi gọi nhau như chạy giặc. Đồ đạc chuyển từ tầng dưới lên cái được cái không, ướt ngoi ngóp. Sáng ra đứng trên balcon ngó ra đường, thôi thì nước là nước, chỉ có ghe sõng xuôi ngược khắp các ngả phố, còn xe lớn xe nhỏ mọi ngày như chìm mất đâu đó trong làn nước đục ngầu. Tụi trẻ con được dịp tắm lụt: chúng ở trần lội nước, chặt những đoạn chuối ngắn xiên cây làm bè chống ngang dọc khắp các nơi như thể chúng đang vào mùa hội đua bè, khiến em nghĩ thành phố bữa trước giờ là dòng sông mênh mông nước, nhà cửa phố phường mọc lên từ mặt hồ rộng. Đứa em trai em cũng nhập bọn, la hét cười đùa thỏa thích, coi mọi hư hại do trận lụt băng qua chỉ là chuyện bình thường. Tới chiều xẩm nước mới rút từ từ, để lại những vạt bùn dẻo quánh trên vách, trên nền nhà, lòng đường... Hôm sau một cái chợ mọc lên ở ngã Năm, ồn ào náo nhiệt như thể trận lụt vừa rồi chỉ là bữa tắm gội cho thành phố. Bọn em đi coi họp chợ rồi rủ nhau lên đầu phố đứng nhóng qua chiếc cầu dài coi chiếc cầu còn hay trôi mất ra biển. Nỗi lo sợ vu vơ không thành sự thật. Nó vẫn bình thản nối hai bờ nam bắc dù cho dòng nước cuồn cuộn kia chỉ cách mặt cầu đâu hơn hai gang tay! Vậy mà đến mùa khô, dòng nước lừ đừ như con trăn no mồi, lười biếng nép mình giữa hai bãi soi vàng rực bông mướp, bông bí, cỏ lông lan tận ra mép nước xa. Hồi mới bước chân vào trung học, tụi con trai lớp em thường hay rủ nhau ra soi hái trộm dưa. Chúng giả đò đi tắm. Bọn chúng tắm thiệt. Cả bọn vẫy vùng trong làn nước trong vắt, cạn tới ngang bụng nhưng kỳ thực là để quan sát những trái dưa hấu chôn lấp đâu đó dưới lớp cát sâu. Chỉ cần những cái liếc mắt như kiểu con chim bói cá là một đứa bò lên, kéo sợi dây, moi cát và bứt gọn trái dưa bự chảng, trong khi tụi kia vẫn cứ té nước, la hét ỏm tỏi. Tụi con gái bọn em chỉ dám thọc chân xuống mép sóng lăn tăn giỡn với làn nước mát lạnh. Những trái dưa ăn trộm ngon hơn là đi ăn đám giỗ, ruột đỏ mọng, ngọt lừ. Uở mà sao tự dưng lại đi nhắc chuyện “xấu hổ” này với anh hẻ?

Để em kể chuyện này chắc chắn là anh chưa biết, chưa từng nếm bao giờ: Hồi sáng này mẹ con em đi chợ. Mẹ kêu lâu cả nhà chưa ăn sứa. Vậy là mẹ thực hiện ngay. Anh ở đồng bằng thì làm gì biết con sứa? Nó là sinh vật sống ở biển. Toàn thân mềm và trong suốt. Mẹ mua toàn sứa chân mang về chần nước sôi, trộn với rau thơm, chuối chát xanh, đậu phộng rang, da heo xắt nhỏ, thêm chanh ớt xúc vào chén ăn với bánh tráng nướng bóp nát. Nó ngon không thể chê vào đâu được. Thịt sứa mát lạnh, dòn dưới chân răng, thơm mùi rau húng đứng, húng duỗi và đậu phộng. Ăn tới no mà không thấy ớn, vì không có mỡ như cá tra, cá ba sa trong quê anh. Khi nào anh là thành viên chính thức trong gia đình, hẳn mẹ em sẽ đãi anh món này trước tiên. Anh ăn một lần sẽ nhớ đời. Mà biết đâu sau khi ăn anh sẽ bỏ xứ mà ra làm con dân trên mảnh đất hai mùa đầy những mưa cùng nắng này?

Nói đến chuyện ăn uống thì Tuy Hòa của em có nhiều món lạ lắm. Tỉ như món cá thài bai nấu cháo đậu cút thì cả nước này và cả trên thế giới không đâu có cá thài bai. Nó nhỏ bằng cọng tăm. Người ta bán không phải cân ký, đếm con mà lật ngược cái chén lên, đong bằng khu chén để tính tiền. Giá trị là ở chỗ đó. Chỉ cần ba khu chén cá thài bai nấu cháo đậu cút là ngọt lừ, thơm, mát, bổ... Mẹ em nói cháo cá thài bai nấu đậu cút tàu dành cho người ốm mới dậy ăn sẽ mau phục hồi sức khỏe. Loại cá này hiếm nên rất quý. Mỗi năm chỉ xuất hiện một lần khoảng nửa tháng trước và sau Tết âm lịch. Đám cá mẹ xuống tận cửa biển đẻ trứng. Nở ra, tự kiếm ăn được thì chúng bơi ngược dòng sông lên thượng nguồn, nên người ta dùng những tấm đăng nhỏ, tạo dòng chảy sát mép bờ cát để lũ thài bài nương theo đó mà vượt lên, phía trên có chiếc đó dày chặn lại bắt kỳ hết. Con nhỏ Nghi giỏi môn sinh vật kêu thài bai là thài bai chớ không phải là cá bống con như tụi em nghĩ. Cãi với nó mấy bận không thắng đành thôi, miễn sao loại cá này đừng mất để thỉnh thoảng còn được ăn: kho tiêu, làm chả ram những năm được mùa cá.

Toàn nói chuyện ăn chắc làm anh mệt? Giờ chuyển sang đề tài khác: nói về thành phố của em, anh nhẻ?

Thành phố bây giờ đã khác nhiều. Chẳng trách hồi em mới lững chững tập đi, mẹ kể thành phố chỉ toàn gai bàn chải, xương rồng và cồn cát. Trường Nguyễn Huệ hồi ba mẹ em học nằm lọt thỏm giữa rừng gai bàn chải lởm chởm. Nay anh có ra đi tìm gai bàn chải trong thành phố làm thuốc cũng không còn. Những cây gai lởm chởm nhọn hoắc kia giờ đã là những ngôi nhà cao tầng, biệt thự, xưởng máy và vô số những thứ khác mang dáng dấp hiện đại hơn, gần gũi với thời đại tên lửa, internet hơn. Nó cũng hối hả, nhộn nhịp như một góc nhỏ Sài Gòn chẳng kém.

Em thì mong cho thành phố to hơn, giàu hơn, mọi người dân có đời sống sung túc hơn, nhưng đồng thời em muốn những hình ảnh, nếp cũ của Tuy Hòa xưa vẫn luôn được tồn tại trong góc khuất nào đó của đời sống tinh thần, như ba em hay kể chuyện hồi nhỏ ông và đám bạn hay rủ nhau lên núi Nhạn giành chuối giành chè với lũ khỉ núi và đánh nhau với chúng ngay trước am thờ thần gần cửa tháp, kể về những cuộc hẹn hò với mẹ em trên bãi soi sáng rực bông mướp vàng đầy ắp giọng hò khoan của những nông dân cắt cỏ bò bên mép nước sông Đà Rằng. Hồi đó chắc khổ hơn bây giờ, nhưng lãng mạn. Con người lãng mạn để thành phố cũng trở nên lãng mạn, thơ mộng hơn. Còn thế hệ của bọn mình, sự lãng mạn ấy đã được cách tân hóa bằng cách chui đầu vào các quán cà phê tối om, các sàn nhảy nêm cứng người cùng tiếng nhạc phát ra ầm ầm như động đất!

Sẽ có người cho rằng em có những ý nghĩ cổ hũ, ích kỷ. Mược

ợơ kệ. Em yêu cái cổ hủ, ích kỷ ấy lắm lắm.

Ước chi bữa đó em đừng trả lại một chiếc vé để anh thấy tận mắt thành phố quê mùa này, em khỏi cà kê...”.

Bức thư chấm dứt đột ngột, dài hơn 10 trang, viết trên giấy pelure gập đôi, bằng màu mực xanh bút bi kẹp trong cuốn sách Phong Lưu Cũ Mới của cụ Vương Hồng Sển tôi mua lại trong tiệm sách cũ ở Bình Thạnh. Chỉ chừng ấy, không có chữ ký, không có tên người gửi, người nhận; chỉ xưng hô anh em, kể về thành phố Tuy Hòa bằng niềm thương nhớ, tự hào. Không rõ khi nhận thư, anh chàng đã lơ đễnh bỏ quên trong quyển sách cũ, hay cô nàng chưa kịp gửi tới tay người yêu? Tôi không quan tâm chuyện tại sao bức thư kia được kẹp trong cuốn sách, tại sao cuốn sách có bức thư đó lại ra nằm ngoài tiệm bán sách cũ. Và vợ tôi thì cứ khăng khăng đó là trang nhật ký của cô bé đang tuổi mộng mơ. Còn tôi thì nhất định đó là lá thư chứ nếu là nhật ký thì chẳng ai ngồi viết trên những tờ giấy mỏng dính? Trong thư không thấy bày tỏ lời yêu thương, nhưng quặn thắt nỗi nhớ nhung cũ mới chồng lên nhau.

Tôi vẫn giữ lá thư một cách cẩn thận và cầu mong cho hai người luôn bên nhau và tràn đầy hạnh phúc như những lời bày tỏ chân tình trong lá thư kia. Tôi cũng mong được hoàn trả lại nếu như các chủ nhân của nó là “em” và “anh” nhận biết được tung tích bức thư được cất trong chiếc hộp, khóa chặt trong tủ kính.

NLU.

nguồn @ thời văn số 7

Thứ Sáu, 21 tháng 9, 2007

THANH SƠN

THANH SƠN


CHÙM THƠ HOÀI NIỆM









Minh hoạ: vũ hà nam

1.

Ái tình món nợ không vay,

Ấy mà không trả lại ray rứt lòng.

Để cho đêm nhớ ngày mong,

Năm dài tháng rộng tơ lòng vấn vương.

2.

Chiều nay ngồi ngắm mưa rơi,

Suy đi nghĩ lại một thời đã qua.

Thỏang nghe trong gió xa xa,

Tiếng em hay tiếng lòng ta sụt sùi

( Một chiều thu mưa 2007)

3.

Đường lên Đà Lạt sương dày,

Chập chùng núi biếc chập chùng mây bay.

Chân dừng mà dạ chưa hay,

Bâng khuâng nuối tiếc tháng ngày đã qua.

......

( Đà Lạt vào thu 2007)

4.

Tiễn em vào độ cuối đông,

Đến nay thấm thoát ngô đồng báo thu.

Thời gian trôi chảy…

mịt mù…

mịt mù…

Xa em những tưởng cách lòng,

Mà sao nỗi nhớ không đong lại đầy

...

(Mùa thu nhớ em, 2007)

5.

Mỹ Tho nhiều đổi thay,

Trôi theo tháng năm dài.

Những vui buồn xưa cũ,

Đong đầy trong mắt ai !

(Nhớ người xưa )

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2007

Đối thoại về vấn đề giáo dục

nguồn@ diễn đàn.org

Đối thoại về vấn đề giáo dục

— Vũ Quang ViệtCập nhật : 17/09/2007 23:10

Toàn văn bài viết về vấn đề giáo dục trong tinh thần đối thoại với phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo.

Xin được đối thoại
với Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân
về vấn đề giáo dục

Vũ Quang Việt

LTS – Dưới tựa đề “Tăng học phí : Trách nhiệm xã hội trong giáo dục cơ sở đến đâu”, báo Lao Động ngày 17.09.2007 đã đăng phần I (trong 4 phần) bài viết của nhà kinh tế học Vũ Quang Việt (Cục thống kê Liên Hiệp Quốc, New York). Chúng tôi xin đăng dưới đây toàn văn bài viết (kể cả đầu đề) của tác giả.

I. Trao đổi về vấn đề trách nhiệm xã hội trong giáo dục cơ sở

Tôi không phải là nhà giáo, mà là người nghiên cứu kinh tế, chủ yếu là thống kê kinh tế, nhưng có quan tâm đến giáo dục Việt Nam, chỉ vì một lý do duy nhất là trong nhiều năm theo dõi các cuộc tranh luận về giáo dục, các phản ánh trên báo chí về chất lượng thấp và sự gian dối trong giáo dục quá ư là không chấp nhận được, do đó tôi đã cố gắng tìm hiểu vấn đề qua thống kê, nhất là thống kê so sánh.

Cho đến nay, nhiều số liệu ở Việt Nam đã được công bố, nhưng số liệu về thu chi cho giáo dục thì vẫn chưa được minh bạch hoá và có lẽ chưa được kiểm toán độc lập. Ngân sách cho giáo dục đã được Bộ công bố trên mạng, nhưng lại quá ư thiếu chi tiết. Dù thế nào thì những số liệu này cũng giúp tôi có một cái nhìn khách quan hơn. Cho đến nay, rất tiếc là chưa có một công trình đánh giá độc lập và đáng tin cậy của giới chuyên gia về chi thu của từng trường, từng tỉnh, và cả nước và loại học sinh được nhận vào trường (qua thi hoặc qua các cửa khác như tại chức, chuyên tu) để có thể phân tích cho rõ vấn đề, nhằm làm cơ sở cho việc cải cách, nâng cao chất lượng sử dụng đồng tiền của dân, qua đóng thuế và đóng học phí. Không thể đặt vấn đề tăng học phí khi chi tiêu chưa được minh bạch hoá, chưa được kiểm toán độc lập, chưa được phân tích đầy đủ. Vụ Kiểm toán mới đây của Kiểm toán Nhà nước cũng cho thấy là đã có hiện tượng không tốt như việc sử dụng 53,6 tỷ đồng của kinh phí KH&CN để làm chuyện khác, 14/32 tỉnh phân bổ và giao dự toán một số khoản chi cho sự nghiệp giáo dục và KH&CN thấp hơn TƯ dự toán là 782 tỷ, cũng như lấy tiền từ chương trình kiên cố hoá trường học cho vay lãi hoặc dùng làm chuyện khác.

Chính vì lý do này mà tôi xin phép được đối thoại với Phó Thủ tướng về những điều ông phát biểu trên báo Sài Gòn Giải Phóng (10/9/2007) về vấn đề tăng học phí. Những số liệu tôi dùng là số liệu chính thức của nhà nước hoặc Việt Nam, Mỹ hay Trung Quốc. Những gì do tôi ước lượng tôi đều nói rõ và nếu yêu cầu tôi sẽ cung cấp.

Trao đổi về giải pháp cho giáo dục phải bắt đầu từ việc xác định quan niệm về giáo dục. Nếu không thế thì việc bàn về giải pháp sẽ không phù hợp vì quan niệm đã khác thì giải pháp tất khác. Trước tiên tôi xin bày tỏ về cách nhìn của hầu hết các nhà kinh tế thị trường về giáo dục. Giáo dục hay bất cứ dịch vụ nào cũng là hàng hoá theo cách nhìn của chúng tôi. Hầu hết các hàng hoá được trao đổi theo dạng “tiền trao cháo múc”. Có tiền thì mua, không thì thôi, và ai mua thì người đó hưởng. Nhưng dịch vụ bảo vệ an ninh quốc gia thì vô hình, không thể mua bán được, và nếu một người trả thì những người không trả cũng được hưởng an ninh. Do đó giải pháp là dân bị đóng thuế, bị bắt đi lính nếu cần để bảo vệ an ninh. Chính quyền thực hiện trách nhiệm xã hội này.

Giáo dục cho trẻ em còn tuổi vị thành niên cũng gần như thế, chúng làm gì có tiền để “tiền trao cháo múc”, chúng được giáo dục thì cả xã hội được nhờ. Nếu có mua, thì cha mẹ chúng phải mua, chứ không phải chính đứa trẻ. Có thể ta cho rằng đứa trẻ không mua được thì bố mẹ chúng phải làm và do đó giáo dục là trách nhiệm gia đình. Nếu chấp nhập lập luận này thì xã hội đã từ nhiệm với con người vì xã hội nào cũng có rất nhiều cha mẹ nghèo dù họ có muốn mua cũng không có khả năng. Dịch vụ giáo dục lại cũng vô hình, không thể biết ngay chất lượng nên không thể dễ dàng xem xét chi phí có xứng đáng với kết quả nhận được không, và ảnh hưởng của giáo dục thì dài lâu cho toàn xã hội, do đó cần có vai trò của xã hội trong việc đặt ra tiêu chuẩn để kiểm tra.

Xã hội phải nhận trách nhiệm chi trả cho giáo dục trẻ em vị thành niên để tạo ra sự bình đẳng về điều kiện ban đầu cho mọi người trong xã hội bằng cách thu thuế. Và cũng vì lợi ích xã hội, không thể để trẻ em thất học. Đây là điều cơ bản mà ta cần nhìn nhận. Ở nước nào cũng thế, dù là tư bản hay không, giáo dục cho thanh thiếu niên còn tuổi vị thành niên, chưa thể tự quyết định cho mình, thì nhà nước tổ chức trường công miễn phí, hoặc mới đây có hiện tượng là nhà nước trả phí tương đương và để cha mẹ học sinh tự chọn trường. Đây là đường hướng cơ sở, có thể gọi là là “định hướng xã hội chủ nghĩa” hay trách nhiệm xã hội mà nhà nước phải thực hiện. Nếu như nhà nước Việt Nam chỉ có khả năng chi trả cho giáo dục tiểu học, hay nhà nước Trung Quốc chỉ có thể chi trả cho giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, và do đó có thu học phí ở cấp khác, thì lộ trình vẫn đòi hỏi học phí cho giáo dục cơ sở cho đến hết cấp trung học phổ thông phải từ từ giảm cho đến khi có thể miễn phí toàn bộ. Chính Trung Quốc đã tuyên bố xoá thu học phí cho giáo dục cơ sở vào năm 2007 này, dù học phí của họ chỉ bằng 20% chi phí.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói rõ về trách nhiệm xã hội này (Sài Gòn Giải Phóng, 10/9/2007) : “…nền giáo dục của ta là nền giáo dục của dân, vì dân, do dân. Dân chủ và công bằng là tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, trước hết phải được thể hiện trong giáo dục và y tế, hai lĩnh vực trực tiếp bồi dưỡng con người. Bác Hồ mong muốn “ai cũng được học hành”. Vì vậy, xu hướng đúng đắn là phải tiến tới bỏ học phí. Nhiều nước tư bản cũng đã bỏ học phí ở cấp phổ thông, có nước bỏ học phí ở cấp đại học. Đất nước Cuba còn nhiều khó khăn vẫn kiên trì thực hiện học tập và chữa bệnh miễn phí.

II. Trao đổi về tính hợp lý khi so sánh chi phí giáo dục

Về chi phí cho giáo dục, Phó Thủ tướng phát biểu : “ Ví dụ chi phí của quốc gia, từ ngân sách nhà nước và đóng góp trực tiếp của người dân (qua học phí và chi khác) cho giáo dục ở Mỹ là 2 880 USD/người/năm (năm 2004), còn ở Việt Nam là 50 USD/người/năm (2006). Tức là họ chi cho một người một năm bằng chúng ta chi cho một người 57 năm !

Đối thoại lại : Đây là so sánh không hợp lý. Chỉ có thể so sánh một cách hợp lý bằng cách so sánh dựa trên tỷ lệ GDP chi cho giáo dục. Mỹ chi cho giáo dục 7,2 % còn ta chi hiện nay ít nhất là 8,3 % GDP, cao hơn cả Mỹ.

Con số 8,3 % này từ đâu mà ra ? Từ hai nguồn, nguồn ngân sách và nguồn ước lượng dân đóng cộng lại. Tổng chi cho giáo dục gần 4,8 tỉ $US vào năm 2006, trong đó 3,45 tỉ $US là từ ngân sách nhà nước (con số chính thức) và 1,3 tỷ do nhân dân đóng góp thêm, dựa theo ước đoán là 21 triệu học sinh bình quân đóng 63 $US hay 1 triệu đồng một năm (sinh viên đại học 150 $US/năm, mẫu giáo 100 $US /năm, phổ thông 50 $US/năm).

So sánh với Mỹ có thể vẫn khó chấp nhận dù là so qua tỉ lệ như thông lệ quốc tế, vậy ta hãy thử so sánh với Trung Quốc. Họ chi trung bình cho một học sinh là 332 $US một năm, so với Việt Nam là 227 $US. Tất nhiên so sánh này cũng còn khập khiễng vì thu nhập trên đầu người Trung Quốc gấp 3 Việt Nam (2 055 $US so với 643 $US), và giá cả mắc hơn Việt Nam khoảng 20 %. Nhưng như vậy cũng cho thấy là về con số tuyệt đối, sau khi điều chỉnh giá, Việt Nam không thấp hơn nhiều so với TQ. Hơn thế, dân đóng góp qua học phí và phụ phí ở Trung Quốc chỉ khoảng 20 % chi phí, so với 40 % ở Việt Nam. Trung Quốc lại mới tuyên bố là sẽ xoá bỏ hoàn toàn học phí và phụ phí ở cấp phổ thông cưỡng bách.

Tỉ lệ ngân sách nhà nước Việt Nam chi cho giáo dục đã lên tới 6 % GDP năm 2006. Không kể dân đóng thêm, nhà nước ta đã chi cho giáo dục với một tỷ lệ có thể so sánh với tỷ lệ trung bình của các nước phát triển cao trên thế giới. Chi phí ngân sách cho giáo dục của ta lại tăng rất nhanh, năm 2007 bằng hơn bốn lần năm 2001, vì mỗi năm bình quân tăng 27 %. Nếu so với Trung Quốc, ngân sách chỉ khoảng 2,8 % GDP và tỷ lệ này vẫn chưa thay đổi, thì nhà nước Việt Nam đúng là đã đặt giáo dục lên hàng đầu, tất nhiên là chỉ trong vấn đề chi cho nó, chứ chưa phải trong vấn đề điều hành và quản lý nó để đạt hiệu quả. Trung Quốc chi ít hơn, nhưng không ai có thể nói là giáo dục Trung Quốc thua kém giáo dục Việt Nam. Vậy thì để cải cách giáo dục và tăng chất lượng giáo dục, hãy làm một cuộc đánh giá toàn diện về quản lý và chi tiêu trước đã, và điều này Bộ giáo dục cần minh bạch hoá toàn bộ chi phí về giáo dục. Việc đánh giá cần phải thông qua một uỷ ban gồm các chuyên gia về giáo dục, kinh tế và tài chính độc lập. Không có đánh giá thì không thể cải cách được. Chỉ nhằm tăng chi thì chỉ làm phí tiền của dân.

III. Trao đổi về trách nhiệm xã hội đối với giáo dục cơ sở

Về học phí cho giáo dục, Phó Thủ tướng phát biểu : Tiểu học vẫn được miễn phí nhưng chúng ta cũng để một "kênh" để gia đình nào muốn trả tiền để được học tốt hơn so với tiểu học miễn phí. THCS, THPT đang đóng học phí nhưng điều kiện học hành vẫn rất kém, thiếu máy tính, cơ sở vật chất… Vì vậy, nếu không đầu tư thêm cho nhà trường từ nhiều nguồn thì không thể tăng chất lượng giáo dục cũng như góp phần đảm bảo đời sống của thầy cô giáo. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, bài toán tăng đầu tư cho giáo dục, trong đó có phương án tăng học phí vẫn phải đạt mục tiêu số người đi học tăng thêm. Vì vậy, sẽ huy động thêm nguồn lực của xã hội bằng nhiều cách như đóng học phí, đóng góp tự nguyện, mở trường tư thục, dân lập…

Đối thoại lại : Điều 59 của Hiến pháp ghi : “ Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. ” Cho nên điều Phó TT phát biểu là hoàn toàn đúng đắn. Tất nhiên tôi còn băn khoăn một điều, tại sao Hiến Pháp lại không ghi là mẫu giáo là bắt buộc. Tôi chỉ có thể hiểu được nếu mẫu giáo là nhà trẻ, và lớp 1 mới là lớp đầu tiên học chữ. Nếu ngay lớp mẫu giáo đã học chữ thì con nhà nghèo đã thua ngay từ lớp 1. Ngoài ra, còn có vấn đề cần thực hiện là xoá bỏ tất cả những biến chứng của học phí như các khoản đóng góp, từ lo xây dựng trường cho đến vệ sinh, v.v. Con tôi học ở trường công Mỹ, ở cấp cưỡng bách, cũng không phải đóng một đồng. Học sinh gia đình nghèo lại được cấp phiếu ăn trưa. Hoạt động của Hội phụ huynh hoàn toàn có tính cách đóng góp tự nguyện, bằng thì giờ chứ không bằng tiền, còn bằng tiền thì ai đóng bao nhiêu vào một hoạt động nào đó thì tùy, và hầu hết là không đóng. Vậy thì nên xoá bỏ trò ép đóng bằng cách nhân danh đa số. Đây là chuyện nhỏ nhưng không hẳn nhỏ.

Chuyện lớn là đề nghị của Phó Thủ tướng lập ra các trường công cho gia đình nào muốn trả tiền để được học tốt hơn so với miễn phí. Ý kiến này rõ ràng là phân biệt đối xử người nghèo và người giầu. Cũng là trường công cả, nhưng có tiền thì vào chỗ tốt không có tiền thì vào chỗ tệ. Công lý ở chỗ nào ? Nhiệm vụ của nhà nước có tính xã hội là cố gắng tạo ra cơ chế bình đẳng cho mọi công dân. Tôi chưa thấy một nước tư bản nào làm chuyện này. Đã là trường công của nhà nước thì mọi công dân phải được đối xử ngang nhau, và có cùng cơ hội giống nhau. Ở các nơi, cũng có trường công với chất lượng đặc biệt tốt, có thể gọi là trường chọn, nhưng mọi học sinh đều có quyền thi vào, và khi vào thì vẫn không bị đóng học phí. Ở thành phố New York nơi tôi đang ở cũng có một số trường như thế. Nguyên tắc bình đẳng trong Hiến pháp của ta không cho phép một nhà nước thực hiện điều ông chủ trương. Đây là điều vi hiến. Ông có phát biểu : “ Khó khăn thứ 2 là những người có thu nhập cao hơn, muốn đóng tiền nhiều hơn để con họ đi học trong điều kiện tốt hơn thì nó lại vượt khung, trường không thu được.” Đây đâu có phải là điều khó khăn. Điều 36 Hiến pháp cho phép lập trường tư. Những người có tiền có thể lựa chọn học trường tư chất lượng cao.

Về tỷ lệ học phí, Phó Thủ tướng phát biểu : Vì vậy, khi đặt vấn đề điều chỉnh đề án học phí, nguyên tắc căn bản là học phí phải phù hợp với khả năng chi trả của người dân. Tức là, người có thu nhập thấp đóng ít, thu nhập cao hơn cũng đóng cùng 1 tỉ lệ nhưng giá trị tuyệt đối lớn hơn so với người nghèo. Khi nói đến đóng học phí theo khả năng chi trả thì ngay trong đó cũng đảm bảo tính công bằng.

Đối thoại lại : Đây là một ý kiến mà các nhà kinh tế không thể đồng ý với ông. Làm sao có sự công bằng và quyền tự do lựa chọn về giải pháp trả giá khác nhau cho cùng một sản phẩm. Nếu thế sao không triển khai ý kiến này đến mọi loại hàng hoá khác ? Cái chính sách hai giá, hay rất nhiều giá, cho một sản phẩm như nhau như ông đề nghị thì các nhà kinh tế ở đất nước ta, kể cả tôi, đã mất gần 30 năm kể từ 1980 khuyến nghị lãnh đạo xoá bỏ. Bởi vì nó đã tạo ra biến chứng lợi dụng ăn chênh lệch. Và xin nói, cái giá để bảo đảm rằng không có “bịp bợm” rất cao. Làm sao mỗi trường học có thể theo dõi thu nhập của từng gia đình để thực hiện ý đồ của ông. Ông có nghĩ rằng mọi gia đình ở Việt Nam đều khai thu nhập ? Ông giải quyết sao nếu gia đình có 1 con và gia đình có 2 hoặc hơn thế đi học ? Và ai sẽ thực hiện việc trừng phạt. Sẽ có những người bình thường nếu gian dối được thì họ sẽ làm, như vậy ngay từ nhỏ đứa bé đã học được thói hư tật xấu vì chính cơ chế mà ông định cho ra đời. Thưa ông, các nước thị trường sẽ đánh thuế thu nhập, người giầu trả tỷ lệ cao hơn người nghèo, với một mục đích rõ ràng là phân bố lại thu nhập trong xã hội. Điều bất công này là nhằm tạo ra an sinh kể cả hài hoà xã hội và tạo ra cơ hội bình đẳng cho công dân.

Về dự kiến áp dụng học phí khác nhau, Phó Thủ tướng Tuyên bố : Dự kiến sẽ có khoảng 20 % người dân trong 1 địa phương có nhu cầu được miễn, giảm học phí. Với nhóm gia đình có thu nhập cao hơn mức bình quân của địa phương, mong muốn đóng góp mức học phí cao hơn để con em họ học ở những trường có chất lượng tốt hơn chuẩn tối thiểu thì nhà nước cho phép có trường chất lượng cao thu phí cao hơn. Tuy nhiên, tỉ lệ các trường thu phí cao phải nhỏ và sẽ điều chỉnh tùy vào tín hiệu của cuộc sống, nếu có nhu cầu lớn hơn thì mở rộng.

Đối thoại lại : Như vậy là hình như ông không áp dụng biện pháp đóng học phí theo tỷ lệ thu nhập như ông giải thích ở trên mà là cho phép có trường công học phí cao cho con nhà giầu, có trường công cho con nhà nghèo, vẫn phải đóng học phí, nhưng nếu nghèo quá thì được miễn giảm. Hệ thống tổ chức đề nghị này tôi chưa từng thấy ở nước nào trên thế giới. Nó bất công như tôi nói, lại phức tạp về kiểm tra thì tôi nghĩ có lẽ nhiều giáo viên trong trường, công chức của Bộ và sở phải học “làm công an” để theo dõi áp dụng cho đúng.

IV. Trao đổi về sự cần thiết của học phí đại học

Về chi phí cho đại học, Phó Thủ tướng phát biểu : Đối với giáo dục đại học, hiện ngân sách của bậc học này chiếm 16,2 % ngân sách dành cho giáo dục,… Chúng ta đang phát triển một nền kinh tế cần có nhân lực trình độ cao nhưng chi cho toàn bộ bậc đại học gồm 1,4 triệu sinh viên chỉ bằng hơn phân nửa so với chi cho giáo dục tiểu học (27,4 %). Hiện nay, học phí đại học của chúng ta khoảng 200 000 đồng/tháng, tức khoảng 150 USD/năm, trong khi ở Mỹ, ở Anh, đa số từ 10 000 USD – 15 000 USD/năm.

Đối thoại lại : Tôi đồng ý với chủ trương thu học phí cho giáo dục đại học, tuy nhiên để có một nền giáo dục có chất lượng thì vẫn không thể không có bàn tay nhà nước và sự đóng góp tự nguyện của xã hội dân sự. Và ở đâu cũng vậy, học phí không phải là chính. Học phí không thôi cũng không tạo ra chất lượng, mà phải nhìn xa hơn. Tất nhiên, chúng ta không thể so với Mỹ và nhiều nước trên thế giới. Ngay cả giáo dục đại học ở Thái Lan cũng hơn hẳn ta, dù ta hơn hẳn họ về số người có bằng tiến sĩ. Thế nhưng ta nên tự hỏi, tại sao bây giờ, ngay Mỹ cũng lại lo ngại về sự thành công của hệ thống giáo dục Trung Quốc trong việc cho ra đời rất nhiều kỹ sư và các nhà khoa học ?

Qua số liệu Trung Quốc công bố (còn Việt Nam thì không), tôi tính được là chi phí giáo dục một sinh viên đại học một năm là 1 277 $US, trong đó ngân sách bỏ ra là $612, học phí là $368, phần còn lại là từ quỹ đoàn thể xã hội. Việt Nam chắc là thấp hơn nhiều nhưng Bộ giáo dục không công bố số liệu để tính, còn ông Phó Thủ tướng thì chỉ đưa ra học phí là $150/năm, chứ không đưa ra chi phí nhà nước.

Xem xét kỹ, ta thấy rõ là Trung Quốc đã phát triển giáo dục có chọn lọc và họ đã đặt kế hoạch xoá bỏ truyền thống giáo dục bắt chước Liên Xô, tập trung các trường nhỏ một ngành vào trường đại học đa ngành, kết hợp nghiên cứu và giảng dậy tại trường, và tập trung xây dựng một số trường có nghiên cứu có tầm quốc tế. Tôi sẽ không thể đi vào chi tiết.

Tôi thấy họ đặt vấn đề quý hồ tinh, mặc dù không quên mở rộng. Do đó mà hiện nay họ thua ta về lượng. Họ chỉ có 1,1 % dân số là sinh viên đại học còn ta đã lên đến 1,6 %, tức là gần gấp rưỡi họ. Tức là ta phát triển quá nhanh, mở đại trà, cho bằng thoả thuê mọi người, bất kể chất lượng. Nếu theo kế hoạch ông đặt ra trước đây là tăng tỉ lệ sinh viên trên dân số lên 2 % vào năm 2010 thì tôi nghĩ rằng mình đang đi theo con đường phá sản giáo dục. Hãy kiếm cách tăng chất lượng lên, trước khi đặt vấn đề số lượng. Tôi hết sức kinh ngạc khi nhìn thấy số sinh viên trong các đại học Việt Nam : Đại học Quốc gia TPHCM 81 ngàn, Đại học kinh tế TPHCM 34 ngàn, Đại học Huế 81 ngàn, Đại học Đà Nẵng 52 ngàn, Đại học mở Hà Nội 46 ngàn, Đại học Thái Nguyên 34 ngàn, v.v. Đây là những đại học vào hàng khổng lồ nhất thế giới. Ở Mỹ, đại học lớn nhất là Arizona State cũng chỉ có khoảng 52 ngàn sinh viên. Các đại học hàng đầu của Mỹ chỉ khoảng 15 ngàn. Tôi không hiểu trong mỗi đại học Việt Nam có bao nhiêu sinh viên là chính khoá, còn bao nhiêu là tại chức, chuyên tu, v.v. Số lượng đại học và cao đẳng cũng mọc ra như nấm, hiện nay con số chính thức là 322. So với Trung Quốc thì số lượng của ta này bằng 17 % của họ nhưng dân số thì chỉ bằng 6,7 %. Như vậy, rõ ràng là ta chạy theo số lượng, và do đó thiếu tiền, mà lại còn thiếu kiểm soát, thiếu lãnh đạo, thiếu hướng phát triển do đó thiếu chất lượng. Tôi nghĩ nhà nước ta nên đánh giá lại phương hướng phát triển giáo dục đại học, thay vì chỉ nhằm tăng trường, tăng sinh viên với mục đính chính là tăng thu nhập cho người làm công tác giáo dục. Những người học chuyên tu, tại chức nên cấp chứng chỉ chứng minh lòng hiếu học, muốn hiểu biết thêm của họ, thay vì cho bằng.

Về trả học phí đại học, Phó Thủ tướng Tuyên bố : …Vì vậy, phải tạo một đột phá trong tài chính cho giáo dục đại học, thay vì trả học phí thấp theo mức thu nhập hiện tại của quốc gia và người dân thì chúng ta phải trả học phí ở mức đảm bảo chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội, đa số người ra trường phải có việc làm và thu nhập khá. Mức thu nhập này cho phép trả lại số tiền đã vay để trả học phí trước đó. Tức là lấy thu nhập của tương lai cao hơn rất nhiều so với học phí hiện tại để trả học phí ở mức có chất lượng đào tạo cao. Đối với bậc đại học, nếu không tăng học phí thì không thể giải quyết được vấn đề chất lượng… Để đột phá về cơ chế tài chính cho giáo dục đại học, ngày 4-9-2007, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị cho vay để trả học phí. Sau 5 năm, tôi tin là hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề sẽ có bước phát triển mạnh mẽ. Học phí phổ thông và đại học, cao đẳng, dạy nghề khác nhau và phải được quyết định với quan điểm khác nhau.

Đối thoại lại : Tăng học phí đại học cộng với chính sách cho vay là điều tôi có thể dễ dàng đồng ý với ông Phó TT, nhưng tăng học phí không nhất thiết đưa tới chất lượng cao. Phân tích so sánh ở trên của tôi đã cho thấy nhiều bất cập quá lớn của đại học VN, cần chấn chỉnh và phải có lộ trình chấn chỉnh. Quan trọng nhất là đại học phải có tự chủ về tài chính, phải có tự chủ về tư duy, về quyết định chương trình và nội dung giảng dạy và về bổ nhiệm giáo sư theo quy định về yêu cầu tối thiểu của nhà nước. Và đại học phải được đánh giá, xem xét đối với từng khoa về việc đủ tư cách cấp bằng dựa trên tiêu chuẩn quốc tế nhất định. Ông cần đưa ra một lộ trình cải cách giáo dục đại học. Việc cho vay cũng không đơn giản mà phải có nhóm chuyên gia tài chính và giáo dục ngồi lại lập dự án và theo dõi thực hiện.

Để tóm tắt những trao đổi của tôi, tôi đề nghị là nhà nước ta nên thành lập một ủy ban gồm cả các nhà giáo dục, kinh tế tài chính, xã hội học có khả năng chuyên môn, có kinh nghiệm và uy tín, trong và ngoài nước, kể cả người nước ngoài, đánh giá hệ thống giáo dục hiện nay và đề ra một số giải pháp để nhà nước chọn lựa. Chúng ta không nên tiếp tục đưa ra một giải pháp để dân góp ý trong khi chẳng có một nghiên cứu cơ bản và đáng tin cậy nào.


VŨ QUANG VIỆT

Thứ Hai, 17 tháng 9, 2007

ĐÌNH QUÂN

ĐÌNH QUÂN

ĐÔI MẮT HOÀI












Trên bàn bày ngổn ngang chồng phác thảo chân dung, Trung vẫn chưa tìm được bản vừa ý. Căn phòng chật ví như bình hồ lô trong chuyện thần thoại thâu tóm mọi thứ vào trong. Nếu chẳng phải như thế thì sao lâu nay ý tưởng của Trung không vượt nổi ra ngoài? Hắn đi tới đi lui, nhìn lên ngó xuống... đầu óc lùng bùng. Hắn mải cố và kiên nhẫn, rồi chợt dừng lại một bức. Hắn bốc ra và đặt lên giá vẽ ngắm nhìn. À, đây rồi bức phác thảo chân dung Hoài cách đây mười mấy năm ngày ta mới yêu nhau. Hồi ấy, bút pháp của ta chuyên tả thực, dồn hết tâm sức để lột xác đôi mắt sao cho thật có hồn. Ý định là cho Hoài một bất ngờ nhân ngày sinh của nàng... Nếu không có cái giấy triệu tập của lão Hưng, Phó chủ tịch Hội Mỹ thuật mời đi thực tế sáng tác ở Vũng Tàu thì khoảnh khắc hào hứng ấy mình vẽ “tác phẩm” này xong rồi. Hắn nghĩ vậy. Dường như cái đọng trong mắt hắn còn đến giờ chợt hiện rõ một trời luyến nhớ tiếc thương. Có thể một phút hối hận. Cũng có thể một chút tự ái dội mạnh về... Nhưng vẫn có cái gì đó kìm hắn lại vì hắn nhận ra giờ đây tất cả là của ngày qua. Mọi điều đã khác. Hắn kẹp phác thảo lên cao một tí để quyết định lần cuối. Hắn sở trường là nắm bắt xa gần của sự vật trước màu sắc. Và hắn cũng chính xác khi sử dụng độ nóng lạnh, mà yếu tố này thường gắn liền với cảm giác nặng nhẹ. Nên khi muốn lột tả thì hắn dồn nén cảm xúc lên mức tối đa, làm khô khốc, cạn kiệt mọi đớn đau... Vì thế hắn sẽ mạnh tay các gam màu: tím, đỏ, nâu mà giảm nhẹ lơ, vàng, lục... Hắn tập trung tưởng tượng và hình như hắn đã nắm bắt đúng thần thái bức phác thảo mà hắn sắp mô tả. Hắn biết Nguyễn Du khi muốn tả một không gian đầy chết chóc đe dọa thì cảm giác đầu tiên là thấy mảng đen lớn bao trùm trong chùm trắng nhạt. Thể như một cơn dông đang ập xuống - “Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây”. Không gian nghiêng đảo; tảng nhẹ chìm dưới mà khối nặng đè trên trở nên ma quái và khốc liệt... Nhưng hắn không làm vậy mà cứ mường tượng trong chùm xanh thẳm, mở rộng chiều kích không gian xa vời của câu thơ Lý Bạch trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng có xanh không cùng (bích không tận) và chảy ở lưng trời (thiên tế lưu). Hắn nghĩ: nơi vô cùng cao rộng thì cao - xa luôn có sự đồng nhất còn như gần - xa thì có “cỏ non xanh tận chân trời” trong Kiều vậy. Và lẩm bẩm: phải thực hiện ngay tác phẩm này bằng chất liệu sơn dầu. Hắn chọn một khung vải căng sẵn cỡ 80 x 120 cm. Đóng chặt cửa, tắt di động, cắt mọi liên lạc với bên ngoài... Hắn tự nhốt mình trong căn phòng không lấy gì rộng rãi. Miệt mài, ròng rã cả tháng, hắn xem như một hành động sám hối. Hắn tự nhủ: phải hoàn thành tác phẩm dù có mười ông Hưng gọi cũng chịu... Bức họa mỗi ngày dần hiện ra. Chỉ còn khép hai điểm sáng con ngươi đôi mắt nữa thôi thì bức tranh hoàn toàn sống dậy. Hắn mừng quá! Hắn ngây ngất! Chưa có lần nào hắn được vui như thế... Chợt văng vẳng hắn nghe như lời ai quen lắm và đôi mắt nhìn thật dịu dàng trìu mến, khẽ hỏi:

-Anh thương yêu! Sao dạo này trông anh hốc hác thế! Hãy dành chút riêng tư cho chúng mình đi anh?

- Không được! Công việc bù đầu. Còn bao nhiêu là phác thảo.

- Chiều em một lát ven hồ cũng không được à? -Đôi mắt hạ đường mi dò hỏi.

- Bây giờ thì không được.

- Em có đòi hỏi gì cao đâu? -Đôi mắt có vẻ như năn nỉ.

- Râu ria chưa cạo, quần áo dính đầy sơn, người bốc mùi mồ hôi, ... lỉnh kỉnh bao nhiêu thứ... Thôi, bữa khác!

- Vậy khi nào anh mới sống hết cho em? -Đôi mắt nhìn cương quyết.

- Anh không biết! Nhưng lúc này thì chưa...

Đôi mắt sa sầm. Hốc mắt khô long lanh như giọt cà phê phin bị trít... Bóng chiều đổ xuống thật nhanh hắt lên nền trời màu vàng lợt...

Đôi mắt thiếp đi, trong mơ hồ hắn nghe tiếng nói của Hoài mỗi lúc một yếu ớt và nhỏ dần...

Trung nhớ, ngày đầu mới quen, anh đôi lần ngâm nga câu thơ của Lưu Trọng Lư nhằm tán dương đôi mắt u huyền một trời mộng mị của Hoài: “Mắt em là một dòng sông / thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em”. Có thể Hoài không hiểu hết tầng sâu của câu thơ nhưng cái nhìn chăm chắm của Trung ngày ấy làm cho Hoài rất thích. Đôi mắt có sức hút mãnh liệt muôn đời của thi nhân mà cũng dằn vặt trăn trở của bao họa sĩ phả vào văn, thơ, nhạc, họa... của mình. Sau này dù trở thành họa sĩ hữu danh dường như Trung cũng không bao giờ thỏa mãn trong hành trình kiếm tìm cái đẹp của mình. Trung thường buông: nỗi khổ lớn nhất của mình là chưa có sự bứt phá để lột tả đôi mắt trong các bức chân dung nào có hồn. Nếu không muốn nói là mình thực sự bất lực. Khi ở trường mỹ thuật, ngoài được học sự huyền ảo nụ cười đầy bí ẩn, thầy Hòa còn bình bay bổng đôi mắt của nàng Mona Lisa trong kiệt tác La Joconde của Vinci và tôn đôi mắt ấy đạt đến chỗ hoàn bích. Thầy Hòa đúc kết: “Đôi mắt tự nó hoàn tất thiên sứ...”. Năm cuối khóa, Trung sớm được khen là người có đường cọ sáng tạo. Ra trường, len lỏi trong khắp ngả, đời tình cờ Trung gặp Hoài. Thấy Hoài có một vẻ đẹp thục hiền và Trung mời Hoài nhận làm người mẫu. Nhưng Trung chỉ loáng thoáng tạo nét cọ nhìn từ viễn cảnh chứ chưa lần nào cận cảnh. Đến khi Hoài về làm vợ, sinh bé Nga, Trung chỉ mới kịp ghi vài đường phác thảo. Cuộc sống bon chen, nợ nần chuyện áo cơm không đưa cái “tổ ấm” của Trung vượt qua nổi tháng ngày khốn khó. Gia đình Trung thường xuyên “bụng đói mắt mờ”. Có bữa, anh nhìn trong gương thấy mắt mình in quầng thâm u ám thì cũng chẳng trách vì sao anh vẽ những đôi mắt trong nhiều tác phẩm “lạc thần” vô hồn vô cảm đến vậy. Duy có bức anh vẽ được đôi mắt trừng trừng bật tia máu đỏ đầy căm giận đặt choán giữa căn phòng là anh tâm đắc. Nhìn góc nào, chỗ nào cũng thấy nó gờm gờm khiến Hoài phát khiếp. Trung lý thuyết: độ chênh vênh của cuộc sống đôi lúc mâu thuẫn và tàn nhẫn với chính ta, mà mục đích cái đẹp lại không mang sự hiềm thù. Cực chẳng đã cả thôi! Bức ấy Trung đề tên “ Rõ nhìn tia máu” ... Tác phẩm đã hoài thai nhưng không cứu vãn cái bụng đói cồn cào kiểu bò sữa gặm cỏ cháy, Trung cảm thấy mình chẳng nên cơm cháo gì. Còn Hoài, đêm nào trong giấc ngủ cũng gặp toàn ác mộng. Hoài tự nhủ: hay là tại đôi mắt bức tranh kia nó ám ảnh ta. Nó không buông tha ta. Ta phải hủy đôi mắt ghê sợ kia mới được. Thế là nhân Trung đi vắng, Hoài quệt màu đen vào chiếc cọ lớn xóa sổ vĩnh viễn đôi mắt kia. Trung về phát hiện bức tranh bị bôi thô bạo, hai vợ chồng giận nhau, cãi nhau... Trung còn vung tay làm mặt Hoài bầm tím. Họ không tự chủ và tha thứ, dắt nhau ra tòa rồi ly hôn. Chỉ vì bức tranh, chuyện như truyện ngắn, mà làm gãy đổ cuộc tình...

* * *

Một sáng sớm khác, hắn làm vệ sinh cá nhân, cạo râu, chải đầu, vận bộ cánh tinh tươm, thắt cà vạt, xịt nước hoa thơm phức... chậm rãi đến gần và nhìn sâu vào mắt Hoài:

- Anh bảnh không?

- Chưa nói được!

- Chứ em không muốn anh nổi tiếng à?

- Anh đã muốn rồi còn gì!

- Anh bây giờ tự do muốn gì được nấy.

- Chưa chắc!

- Em có muốn xem phòng tranh của anh không?

- Em không còn trẻ... và mắt anh đã già.

Hắn có biết mình gặp vận may khi hoàn thiện bức tranh hay không nhưng cuộc trở về trong tâm tưởng thoải mái tung hoành đường cọ làm hắn rất hạnh phúc. Hắn thấy từng giọt nước mắt ngày xưa của Hoài trào chảy. Bởi thế trong phút xuất thần hắn mới lướt những đường nét rất tinh tế. Giờ đây bức tranh hoàn toàn sống dậy, có sức lay động hồn người thưởng ngoạn. Chứ chẳng không thì hôm cắt băng triển lãm phòng tranh sao có nhiều người chen nhau hỏi mua bức tranh “Đôi mắt Hoài” đến thế. Lúc đầu, mặc dù người xem thấy góc phải phía dưới bức tranh đề câu “tranh không bán”, nhưng họ cứ nằng nặc đòi mua, ngã giá cao rồi Trung cũng ưng thuận. Hắn tự nhủ: Thôi thì nhận đỡ trăm triệu, mình còn bức phác thảo sẽ thực hiện một dịp khác... Sau cuộc triển lãm phòng tranh nhiều tờ báo lăng xê hắn. Người ta thêu dệt đủ thứ nào ca ngợi đôi mắt Hoài như phiên bản La Joconde v.v... Hắn nổi tiếng và giàu có. Kể từ đó tới tấp nhiều hợp đồng béo bở đến với hắn. Và ý định vẽ lại bức “Đôi mắt Hoài” chẳng bao giờ nghe hắn nhắc đến.

* * *

Tay chống nạnh, giạng chân giữa căn phòng rộng thênh trưng

bày tranh la liệt đủ kích cỡ. Hắn lướt nhanh hàng tranh thì nghìn nghìn ánh mắt lố nhố dòm hắn. Hắn trừng mắt và hất hàm:

- Những đôi mắt cú vọ kia, còn lâu bay mới bằng chị Hoài.

Hàng loạt đôi mắt trong tranh nhếch cười:

- Ông chẳng hơn gì chúng tôi. Cái con mắt mà giương to cỡ đó thì muôn đời ông không bao giờ tái hiện nổi đôi mắt của chị Hoài được đâu!

Xấu hổ, hắn sấn sải bước ra ngoài. Chiếc bóng to bè in trên mặt vệ đường vệt dài ngoẵng. Hắn vội vàng chui tọt trong chiếc Ferrari bóng loáng mở cửa chờ sẵn. Mồ hôi đẫm ướt trên trán hắn nghĩ: càng biết thì mối nghi ngờ càng tăng, đó không chỉ là câu châm ngôn. Mà trong đó hàm chứa một nội dung biện chứng có tính chất thúc đẩy, vận động đúng với chung và riêng; với chiều thực và không thực của con mắt. Sự lạ hóa này ánh chiếu trên vòm kính hiện rõ đôi mắt đen ngòm như hai cột ống khói.

ĐQ.

nguồn @ thời văn số 7

Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2007

TRANG THƠ THÁNG 9

NGUYỄN NHƯ MÂY

KỊCH











ngày trả hết cho anh

những bướm hoa rách nát

anh giấu sau tiếng hát

lần đầu săn đuổi em

đêm trả hết cho anh

những mũi tên tẩm độc

anh giấu sau tiếng hát

ngày đầu thương nhớ em

đời trả hết cho anh

những phông màn sân khấu

nơi xưa anh đã giấu

trái tim mình điêu ngoa...

CHÂN DUNG MỘT CHỦ QUÁN

tặng Phùng Đạt

quán không có khách, quán buồn

ly không bàn ghế trống trơn đèn màu

tôi không có khách, chẳng sao!

vẫn phì phèo điếu thuốc nâu với mình

vẫn làm từng ngụm rượu quen

quen tay nâng cốc, quen nhìn đêm khuya

quen mình còn chỗ đi về

thân phù du trễ chuyến xe... cười khà!...


NGÀN THƯƠNG

MÙA THU GỌI










nghe xao xác heo may

thu đã về quá nửa

nắng vàng trong mắt cay

lá vàng như mắt lửa

sáng nghe con chim hót

những lời của dòng sông

nghe tim mình thảng thốt

vỡ òa theo hư không

một mình lang thang nhớ

những ngày không bến bờ

gót buồn... bao quán trọ

bềnh bồng muôn ý thơ

mùa thu tràn ngõ phố

gọi một ngày không tên

bâng khuâng muôn trùng nhớ

nỗi mơ hồ như quên...


NGUYỄN TẤN CỨ

MÙI HƯƠNG CŨ










ôi mua một chút... chia lìa

ở nơi xa ấy – bên rìa - đại dương

tôi mua - một chút vô thường

thật xa – nơi ấy – mà thương – quê nhà

tôi mua – một chút – thật thà

mới hay – gian dối – chỉ là... vậy thôi

gian dối – đỏ sậm – bờ môi

khi hôn – mới biết – nổi trôi - kiếp người

em cho – tôi một - nụ cười

sáng trong – phi cảng – lúc mười giờ đêm

em cười – trong tiếng – vang rền

máy bay bật khóc... lãng quên tôi rồi!


ĐÔI BỜ MÔI CŨ


*

tôi nằm trên một... ngọn đồi

ngó xuống thành phố... mồ côi con người

tôi đè ngọn cỏ xanh tươi

ở trên nước Mỹ – ngày mười tháng năm

tháng năm – mười sáu – mười lăm

mới hay - em đã... xa xăm... ngút ngàn

mới hay – mùa đã úa vàng

trên đôi môi xám – hoang đàng hôm qua

*

tôi thương mùa cũ đang tàn

với mùi – hương cũ – cũng đang... phai màu.

Washington DC 5-०६


VŨ HY TRIỆU

TIẾNG SÓNG










đưa người ta không đưa sang sông

sao có tiếng sóng ở trong lòng...

Thâm Tâm

Về đây em về chi đây?

cõi lòng tao tác cứ đày đọa anh

thà như một sớm mai xanh

em đi ôm giấc mộng lành vàng theo

Thà làm như cọng gió reo

nhớ mùi hương rũ hanh heo bên người

bây giờ gặp chẳng nên lời

màu trăng phai nhạt bên trời lạnh im।


HỒ VĂN NHU

CHUYỆN CHÚNG MÌNH











Em còn tuổi

Của mùa tóc rối

XUÂN – HẠ - THU

Môi, má nồng nàn

Em qua ngõ

Cánh hoa mùa phượng

Chao dòng mùa

Ngan ngát một làn hương

Anh chưa kịp

Đã ĐÔNG tầm tay với

Heo may về

Sợi tóc trắng màu tang

Hồn để ngỏ

Em qua chiều

Sương khói

Lạnh đủ vừa

Va vấp

Tháng ngày

Xa...


LẠC NGÕ NHÀ ANH


Mình gặp nhau rất đỗi tình cờ

Chiều thiếu nắng

Em định “cúp cua” giờ Văn cô giáo Ngọ

Đuổi theo bắt con chuồn chuồn kim đít đỏ

Lạc vô vườn

Lạc ngõ nhà anh

Câu thơ anh đang lúc chòng chành

Em bỗng dưng trở thành đích ngắm

Anh hóa thân chàng Đông Ki Sốt

Thoắt cái, chặn ngang nẻo xuân thì

Con chuồn chuồn khép vội đôi mi

Tay chuyền tay, nép vào vạt áo

Em đê mê

Còn anh thì vênh váo

Kịp đưa em đến lớp buổi Kim – Kiều

“Người đâu...” giọng cô giáo Ngọ đều đều

“Trăm năm ...” bóng em khuất vào cửa lớp

Kịp ném lại cái nhìn

Vừa vẹn kín vần thơ।


TRƯƠNG NGUYỄN

NGƯỜI KHÔNG KÝ ỨC










Buổi sáng ngồi bên vệ đường

Người xe qua lại chẳng vương vấn gì

Nụ cười thoáng chút vô vi

Như đùa như thật nửa bi nửa hài

Tay gầy đọng chút sương mai

Mắt nhìn xa vắng dặm dài mây qua

Hạt cơm nuốt vội gọi là

Đói no cam chịu lụa là chẳng ham

Không còn nhớ chuyện trăm năm

Chẳng mang ký ức để thầm xót đau

Đường xa vạn dặm trôi mau

Ba sinh như nước qua cầu thế thôi

Hai tay buông thõng sự đời

Tâm không nhẹ bước xa rời buồn vui

Đêm không chăn chiếu ngủ vùi

Sáng mai thức dậy nhìn người lại qua...


TRẦN TỊNH YÊN

QUÊ MÙA










khi không

ngồi nhớ quê mùa

nhớ đình nhớ quán

nhớ chùa em tu

khi không

ngồi nhớ mùa thu

nghe khuya rụng giữa sương mù

hạt chuông

nhớ xưa

quê quán đầu nguồn

nhện giăng ngõ vắng

tơ buồn liêu xiêu

khi không

ngồi nhớ Thúy Kiều

sông quê ai thả bùa yêu

tôi về

nhớ em

từ độ xa quê

yếm đào bỏ lại...

vàng đê cải ngồng!


ĐÀO DUY ANH

LỜI RU










anh đi trang sử nối lời

em cầm trăng khuyết qua thời trúc xanh

ru con ví dặm ru mình

ngủ đi trăng thức đêm rình ca dao...


ĐẤT VÀ THƠ


xin bình lặng mà trùng dương không thể

sóng ngoài kia nghiêng biển xót đau bờ

đau mớ ngôn từ tứa bùn đen run rẩy

ta gánh nỗi mình đen nhẻm đất và thơ।


SỢ...


a sợ lắm mình già hai thế kỷ

chưa đi hết đường tình

sợ một ngày mặt trời thôi bóng sáng

dòng máu người đen điêu linh

sợ một ngày trái đất không quay trên trục nghiêng

quả tim lưng chừng giữa

em ơi! bờ ngực trái chúng mình

kịp rộn rã yêu thương...?


VŨ ĐÌNH NINH

QUA KHÚC TỰ TÌNH










*gửi Đoàn Vị Thượng

Nghe ai ru lời tự tình

lần theo khói thuốc dò mình qua đêm

lửng lòng vào chỗ nhớ quên

vớt câu huyền thoại thả trên lời nguyền

Nghe ai ru lời bình yên

từ trong sâu thẳm màu thiền ghé qua

lửng tâm thiện ác giao hòa

không không sắc sắc bụi hoa ngập mù

Nghe ai vọng về lời ru

từ xa cõi mộng bạn thù vây quanh

lửng soi nơi ấy bại thành

một ly rượu nhạt xin dành cho hai

Nghe ai rơi khúc lạc loài

một bông hoa rụng xạc xài sương khuya

lửng tình nửa tỉnh nửa mê

thầm phân vân lối đi về hai nơi

Nghe ai hát vọng nỗi đời

câu thơ chén rượu nói lời tri âm

lửng nhìn đâu đó xa xăm

thấy bàn chân lửa sáng thầm bước đêm...


VŨ KHẮC TĨNH

Ở SÀI GÒN











bạn bè dăm đứa về đây

uống đi sẵn rượu chén này cho vơi

dung thân trong cõi đất trời

bon chen không nổi với đời thì say...


NGUYỄN LÃM THẮNG

ĐỘC THOẠI BIỂN










Những đôi tình nhân đưa nhau về biển

họ nối ngày vào đêm bằng những vòng tay

từng đợt sóng ngọt ngào dâng hiến

yêu nhau hơn và chiu chắt từng giây

Chiều mỏi nắng và con tim khát bỏng

hơi thở mọc lên nỗi nhớ hoàng hôn

anh chới với giữa ầm ào ký ức

đối diện hàng trăm người – một nỗi cô đơn

Biển rộng quá... buồn thì sâu vô tận

bờ vô cùng là bến không em

anh dắt đôi chân mình trên lạnh nhàu cát trắng

thiếu bàn chân mềm, cát lún sâu thêm

Biển rạo rực mênh mông hơn bao giờ hết

vẫn nhỏ nhoi trước nỗi nhớ chiều nay

có một điều em không bao giờ biết

nếu em về, biển khép... một vòng tay।


VĂN NOA

TÌNH SAY










Tình thơ say đắm cõi trời mơ

Tình bạn say quên nỗi đợi chờ

Tình rượu say mềm rồi lại tỉnh

Tình em say chẳng tỉnh bao giờ...


THIẾU

nhớ Phương xích lô

Huế chừ thiếu một tín đồ

Sông Hương thiếu khách quán hồ túy ca

Thiếu men lạc phố chiều tà

Thiếu người chở gió dặm xa đi về...


ĐẶNG THỊ THANH THỦY

KHÚC THÁNG TƯ











Khi giọt nước mưa lăn trên gò má

tôi thức dậy và bỏ đi một mình

con tàu trong mù sương xa

nhả cọng khói đen vội vã

Con mắt mùa thu bật mở

ánh lửa vàng soi hơi hám người tình cũ

anh đứng trên triền tuổi thơ ngó xuống

thấy cuộc đời anh

thấy cuộc đời chúng ta vết chàm loang lỡ

Anh đứng chờ mũi tên đời mình

trên triền cao anh dạng chân và rú

nghe quả tim mửa máu

khi thấy loài cỏ khô bật tiếng kêu đau

nghe xót xa như cành cây gãy

trong hơi thở mùa hè u ám

có còn gì chút đời vui?

Ơi Thủy Thanh người yêu em có nhớ

đêm trăng mờ trên lối tóc miên du

anh nhớ mắt em xanh xao mộng mị

như dòng Đà giang nước lọc nghìn đời

như ánh sao đêm cài lên mái tóc em phù dung tình tự

lòng anh mở ra tà áo lụa trinh nguyên

anh sợ một ngày nào

ánh trăng bay dài cô độc trăng sao

hồn anh ngã trong nụ cười em tuổi mật

anh vuốt ve hồn anh ngã ngửa

ơi, đêm thiên đường ngủ dưới vai thơm

Hỡi Thanh Thanh người yêu em có biết

anh sẽ về

nhất định anh sẽ về

một đêm trăng sáng nào

trong khu vườn hoa sứ nở

Nhất định anh sẽ về

nhìn mắt em

và nghe em hát bài ca tình ái

sông xanh...

toàn trang là minh hoạ: của vũ hà nam

nguồn@ thời văn số 9