Thứ Hai, 13 tháng 10, 2008

Tưởng Dung

Theo Talawas


Tưởng Dung













Sao thiên thu không là...



(tưởng nhớ Nguyễn Tất Nhiên)

Khi gọi Minh Thủy để nhắc về buổi hẹn đi ăn trưa vào ngày Chúa nhật hôm sau, tôi nghe giọng Thủy thật nhẹ nhàng ở bên kia: “Dung à, mày đi với tao thăm mộ anh Nhiên trước khi đi ăn một chút được không? Hôm qua là giỗ của anh ấy đó, chắc lâu lắm rồi mày đâu có đi đến đó hả nhỏ?”. Tôi giật mình như vừa được nhắc nhớ đến một người bạn thân, một kỷ niệm quen thuộc, rất gần gũi, rất tự nhiên mà mình đã có và vô tình quên khuấy đi mất. Ừ nhỉ, đời sống bên này với những bận rộn, hối hả từng ngày, đôi khi có ai tình cờ nhắc đến những người bạn nào đó đã có một thời thân thiết, giao thiệp qua lại với nhau thật lâu bỗng dưng “mất tích” không gặp nữa vì hoàn cảnh, công việc hoặc dọn đi xa, tôi vẫn mừng rỡ, háo hức, chờ được nghe thêm tin tức hoặc gặp lại. Huống chi là anh Nhiên, vừa là người anh, vừa là người bạn đời quá cố của đứa bạn thân thiết nhất của tôi từ dạo còn đi học cho đến giờ. Trong phút chốc, hình ảnh cao gầy, lỏng khỏng với hai cánh tay dài quá khổ hay quơ quơ để diễn tả và gương mặt cứ… nhăn nhó, bậm môi, mỗi khi nói chuyện với tôi của anh hiện ra, rõ ràng trong trí nhớ. Anh Nhiên và tôi đã có một thời gian thân thiết và cũng có một thời gian… thù nhau quá sức. Nhớ tới mối quan hệ rất ngộ nghĩnh, đầy “hỉ, nộ, ái, ố” của chúng tôi trong chuỗi ngày xa xưa ấy, tôi thật không biết phải vui hay buồn. Thời gian quả thật đáng sợ, mới đó mà anh mất đã 15 năm rồi. Lần này đến thăm anh, chắc chắn tôi có rất nhiều điều để nhắc nhớ.

Khi Thủy bắt đầu quẹo xe vào cổng của nghĩa trang Peek Family, cái âm thanh náo động ngoài đường phố bỗng dưng chìm dần, rồi tắt hẳn. Trước mặt tôi là con đường nhỏ vòng theo những vòm cây rợp bóng mát, thinh lặng, nhẹ nhàng… Mặt đất là những thảm cỏ xanh mượt mà được chăm sóc cẩn thận. Ngồi cạnh Thủy đang chầm chậm lái xe đến chỗ an nghỉ của anh Nhiên, tôi thong dong ngắm nhìn một khoảng không gian an bình, thoát tục đang trải rộng quanh mình, chỉ có tiếng gió rì rào trên các tầng cây, tiếng xào xạc của những chiếc lá khô đang uốn mình trên mặt đất khi bánh xe nghiến lên. Không khí yên lành, thanh tịnh dễ khiến lòng người lắng đọng. Những lo buồn, ray rứt của đời sống, của những ngày trước kia đã có bỗng dưng chìm xuống, ngủ yên. Tôi như lịm người đi với cái cảm xúc lạ lùng chợt ùa tới, cái cảm giác mà từ lâu tôi không có được… bình yên và thanh thản. Không thấy bóng người lai vãng, buổi trưa cuối tuần thế mà vắng vẻ quá! Dường như những người nằm đây đã bị đời lãng quên? Lâu lắm rồi từ ngày tiễn anh ra đến phần mộ trong nghĩa trang này, tôi chưa bao giờ có dịp để trở lại viếng thăm, kể ra là cũng quá tệ! Nhưng biết làm sao hơn? Thôi thì nhờ Thủy hôm nay cho tôi cơ hội để được thăm lại người mà tôi đã từng xem như một người anh và có lúc đã xem nhau như “kẻ thù” (như tôi và anh đã từng nghĩ về nhau sau một trận cãi vã kịch liệt).

Tiếng Thủy kéo tôi trở về với thực tại:

“Chịu khó đi bộ một chút nha nhỏ, mộ anh Nhiên ở trong kia, không cho xe vô được.”

Tôi cười:

“Ừ thì có dịp đi excercise một chút, có sao đâu!”

Tôi xuống xe với một tâm trạng nao nức, kích động như sắp sửa đi gặp lại người quen đã lâu rồi… thất lạc. Hai đứa chia nhau cầm bó hoa, nhang và hộp quẹt bắt đầu lần bước tìm bia mộ anh Nhiên. Nghĩa trang ở đây không choáng đầy mắt với những ngôi mộ xây cất đủ hình đủ kiểu, chằng chịt như ở Việt Nam. Các ngôi mộ ở Mỹ đều giống như nhau. Một khoảng đất cùng kích thước, nằm san sát, có hàng lối rõ ràng, tấm bia được đặt nằm phẳng phiu ngay trên mặt đất, vì thế cũng khó mà định hướng mộ của thân nhân mình nếu không biết trước.

Thủy nhắc tôi:

“Coi chừng đạp lên mộ người ta đó nha, có khi mộ cũ quá rồi mày không thấy rõ cái mặt bia đâu.”

“Ừ, tao biết mà.”

Tôi vừa đi vừa nhẩm đọc thử tên tuổi của những bia mộ gần bước chân mình nhất, có nhiều người chết thật trẻ, nằm bên cạnh những ông bà cụ tuổi thật cao. Nắng chói chang trên từng dòng chữ, trên những tấm ảnh đã phai màu với thời gian.

Chúng tôi dừng lại ở dưới một bóng cây với những tàn cao, to rộng, đầy bóng mát. Thủy nói:

“Đây rồi, mộ của anh Nhiên may là được nằm ở chỗ này, có bóng mát lại cũng gần chỗ có nước, thoáng và lý tưởng, chứ mộ của ông Mai Thảo ở đàng kia, trơ trụi, không có cây cối gì cả nắng nóng cả ngày, mày ơi!”

Tôi rảo mắt nhìn quanh, cố nhớ lại hình ảnh của mười mấy năm về trước. Cũng nơi này, gia đình, bạn bè, người thân của anh Nhiên có mặt đông đủ lúc hạ huyệt, những nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, mà lần đầu tiên tôi mới gặp mặt đã đứng ở đây đọc điếu văn, chia buồn, nhỏ lệ xót thương. Chưa bao giờ tôi được thấy nhiều nhân vật nổi tiếng cùng một lúc như thế. Tôi nhớ là mình đã rất xúc động khi nghe ông Phạm Duy với mái tóc bạc trắng ngậm ngùi, từ tốn nhắc đến những kỷ niệm với anh Nhiên và những bài thơ mà ông đã phổ nhạc. Tôi nhớ ca sĩ Việt Dũng đứng ở góc kia và một số người nữa nhìn tôi với đôi mắt hiếu kỳ khi thấy Thủy cứ gục đầu vào vai tôi khóc nức nở. Chắc họ thắc mắc không biết tôi là ai và có quan hệ gì với gia đình người quá cố. Và nơi đây, mẹ anh là người cuối cùng sau khi xác thân anh đã thực sự được đặt yên dưới lòng đất lạnh, đã khóc than, hối tiếc về sự ra đi của đứa con mà đến bây giờ trước sự thương tiếc, quý mến của thân hữu, của mọi người đối với anh, bà mới nhận ra con mình quả là một “thiên tài” đích thực. Nơi đây, chỗ này đã chứng kiến giờ phút cuối cùng “nghĩa tử nghĩa tận” của anh đấy mà. Những cành hoa đã thay nhau rơi xuống, phủ đầy trên nắp áo quan, những giọt lệ đã cạn khô trên mắt người đưa tiễn. Anh đã thực sự đi vào cõi thiên thu. Nơi mà anh đã cảm nghiệm được và nói đến rất nhiều từ những bài thơ đầu tiên. Tôi nhớ sau tang lễ của anh, khi mọi người lần lượt ra về, tôi đã đứng trước mộ anh một hồi lâu, nhớ đến bài thơ “Thiên thu” nằm ở trang cuối cùng trong tập “Thiên tai”, một trong những bài thơ mà tôi rất thích ngay lần đầu đọc thơ anh, bấy giờ sao mà thấm thía:

“Sao thiên thu không là xa nhau?
nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu
tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập
và một con đường cúp điện rất lâu.

Sao thiên thu không là chôn sâu?
nên nắng xưa còn hôn mái tóc nhầu
tôi đứng như xe tang ngừng ngập
và một họ hàng khăn trắng buồn đau…

……………….

Sao thiên thu không là thiên thu
Nên những người yêu là những ngôi mồ
tôi đứng một mình trong nghĩa địa
và chắc không đành quên khổ đau!”

Quả thật, sau mọi linh đình đưa tiễn, anh đã ở lại một mình trong nghĩa trang này với những khổ đau, nghiệt ngã của cuộc đời đã được chôn vùi dưới lòng huyệt lạnh, đã cùng anh đi vào tận chốn thiên thu!

Tôi lặng lẽ cắm hoa vào cái bình đã có sẵn ở trước mộ, Thủy đi lấy nước ở một cái vòi cách đấy vài mươi bước và trở về đổ đầy vào bình hoa, tôi ngạc nhiên nhìn Thủy tưới phần nước còn lại lên trên mặt tấm bia, nhưng ngay sau đó lòng lại xúc động, bùi ngùi khi thấy Thủy dùng cuộn giấy mang theo, từ tốn lau sạch đi những bụi cát đang phủ lờ mờ trên đó. Bia mộ anh là một phiến đá làm bằng lacquer đen bóng, sau những vệt lau của Thủy đã lại sáng như gương. Tấm ảnh của anh hiện ra thật rõ ràng ở trên góc trái cùng với phần đầu của bài thơ “Giữa trần gian tuyệt vọng” anh viết từ năm 1972 nằm ngay bên cạnh. Tôi ngồi xuống, đọc từng giòng thơ đã được viết với nét chữ khắc thật đẹp với lòng trân trọng pha lẫn xót xa:

“Ta phải khổ cho đời ta phải khổ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định
(Vì thượng đế từ lâu kiêu hãnh
Cầm trong tay sinh tử muôn loài.
Tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai
Thì em hỡi ngai trời ta đạp xuống)”

Cũng khá thân và lại rất thích thơ anh Nhiên, nên hầu hết các bài thơ của anh tôi đều biết và thuộc lòng (hoặc ít nhất cũng vài đoạn trong mỗi bài). Riêng bài này, khi tình cờ nghe lại, trích trong bài viết “Tìm ở sao trời” của Hoàng Mai Đạt đăng trong tạp chí Văn Học và được đọc một lần trên đài radio Little Saigon hồi tháng 6, tôi đã ngậm ngùi, chợt nhớ ra: anh Nhiên đã mất lâu lắm rồi! Nghe nhắc đến bài thơ đã buồn, giờ trông thấy, đọc lại càng buồn và thấm thía hơn! Anh làm thế nào mà có thể khẳng định rằng cuộc đời mình là “phải khổ”, “phải ê chề” và nhất là “phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định” từ năm mới vừa 20 tuổi?

Thủy vỗ nhẹ vai tôi, đưa mấy nén nhang và dặn dò:

“Mày khấn xong rồi cắm cho anh Nhiên vài cây, còn lại chừa để lát nữa đem cắm ở những ngôi mộ khác nha.”

Từ ngày qua Mỹ, thực sự tôi cũng rất ít, hay nói hẳn ra là không có dịp nào đi vào nghĩa trang thăm mộ người chết như thế này, trừ những lần đưa tiễn, cầu nguyện ở nhà quàn trước khi hạ huyệt, nên có Thủy nhắc nhở cũng đỡ phải lúng túng.

“Khấn gì đây? Liệu anh có còn quanh quẩn đâu đây để nghe tôi nói không?” Tôi với anh từ lúc mới quen biết đến khi anh mất đi, có lúc đã chuyện trò vui vẻ, đã “cãi vã” thật nhiều, có lúc lại không thèm nhìn mặt hoặc nói với nhau lời nào. Hơn nữa, tôi đã không gặp anh ít ra cũng gần ba năm trước khi anh mất, anh giận tôi đã không cho tin tức gì của Thủy, tôi giận anh đã đối xử với đứa bạn thân của tôi và là vợ con anh quá… hờ hững, vô tình! Và như thế chúng tôi cứ như là “ân đoạn nghĩa tuyệt” từ đó. Không ngờ, chỉ một thời gian sau, anh đã tự rời bỏ cuộc đời quá sớm và dễ dàng như những bài thơ anh đã viết vậy!

Tôi cầm mấy nén nhang, mắt đăm đăm nhìn vào di ảnh của anh, thì thầm những lời không chuẩn bị mà vẫn nói thật suông sẻ như là đang có anh trước mặt:

“Anh Nhiên à, chắc rằng ở chốn “miên trường, vĩnh cửu” nào đó, anh đã quên hết mọi thống khổ, lụy phiền của nhân gian, đã được hưởng sự an vui, cực lạc đời đời rồi. Mong anh cũng quên và tha thứ cho những gì anh em mình đã hiểu lầm, giận ghét nhau trong quá khứ. Hãy ngủ yên và thanh thản trong “cõi thơ” trên chốn thiên đàng của anh. Hãy phò trợ cho Thủy và các con anh, giữ gìn, nâng đỡ chúng để chúng khôn lớn, vững chãi, có sức mạnh, niềm tin mà vượt qua mọi thử thách của cuộc sống, đừng để chúng vấp ngã, trầy sướt và đau đớn nha anh.”

Mắt tôi bỗng nhòa đi với ý tưởng là tôi đã nói được điều mình muốn nói với anh mà trước kia đã không có dịp. Lời xin lỗi rất chân thành. Dù gì tôi, Thủy và anh cũng có cái “duyên” với nhau trong một khoảng đời dù không dài lắm nhưng cũng không thể gọi là ngắn ngủi. Và cứ thế, những hình ảnh xa xưa bỗng quay về trong ký ức thật nhanh như những đoạn phim rời vừa được ráp nối.

Tôi nhớ lần đầu tiên, lúc anh vào lớp tôi để giới thiệu tập thơ “Thiên tai”. Tôi đã ngạc nhiên vì không biết tại sao một nhân vật… tầm thường của trường mình, người vẫn có tiếng là “gàn”, thậm chí còn bị cho là “khùng” như anh mà lại biết… làm thơ và lại còn… dám in thơ đem bán nữa. Vì tò mò, tôi đã lật xem thử vài bài trong tập thơ và không ngờ bị lôi cuốn ngay với “Bài thấm mệt đầu tiên”, “Nên sầu khổ dịu dàng”, “Linh mục”, “Nên thời gian ấy ngùi trông”… tôi đọc say sưa, đọc mãi cho đến bài cuối cùng “Thiên thu”, và như người vừa nhận ra mình đang cầm một “báu vật” trên tay, không thể nào để mất, tôi mua ngay một quyển dù lúc đó giá tiền của tập thơ không phải là nhỏ đối với tuổi học trò lớp mười của tôi. Tôi đem về nhà đọc đi đọc lại mãi những bài thơ của anh, bắt đầu thán phục về “tài làm thơ”, về sự liên tưởng, lý luận để bày tỏ, diễn đạt tâm tình một cách thật đơn sơ, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc qua việc sử dụng từ ngữ mới lạ, độc đáo của anh. Những hình ảnh rất dung dị, bình thường của đời sống qua thơ anh bỗng trở thành đẹp đẽ, ý nghĩa hơn. Tôi thật sự ngạc nhiên và thích thú với sự so sánh của anh trong “Bài thấm mệt đầu tiên”:

“Tình mới lớn phải không em rất thích?
Cách tập tành nào cũng thật dễ thương
Thuở đầu đời chú bé soi gương
Và mê mải dĩ nhiên làm lạ.

Tình mới lớn phải không em rất lạ?
Cách tập tành nào cũng ngượng như nhau
Thuở đầu đời chú bé ôm phao
Và nhút nhát dĩ nhiên ngộp nước.

Tình mới lớn phải không em rất mỏng?
Cách tập tành nào cũng dễ hư hao
Thuở đầu đời cầm đũa thấp cao
Và nâng chén, dĩ nhiên, đổ vỡ…”

Cũng nhớ, trong tập “Thiên tai” anh viết chỉ có một câu thôi mà đã làm tôi sững sờ và có ấn tượng mạnh mẽ hơn về con người của anh là:

“Tôi không đủ kiên nhẫn để đọc hết một quyển truyện dài, vì truyện dài không thể đọc vội vã. Người chắc cũng không đủ kiên nhẫn để yêu tôi vì tôi còn dễ chán hơn truyện dài. Tôi là một kịch bản trường thiên!”

Anh đã tự thu mình lại, khiêm nhường đi, chọn cho mình con đường cam phận, chịu thua thiệt, hay dùng đó để xác định rõ về bản tính, về chủ năng của chính mình, một “thiên tài” không dễ ai hiểu biết và cảm thông?

Từ đó, anh được tôi xem như là một nhà thơ trong danh sách “thần tượng” của thơ với ngôn ngữ mới lạ. Sau, nhờ chị Duyên, nhân vật trong bài thơ “Khúc tình buồn”, được Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát “Thà như giọt mưa”, tôi lại có “duyên văn nghệ” được anh cho mượn phụ bản “Duyên” trong tập thơ “Thiên tai” để làm bìa tập thơ “Tuyên ngôn 15” cho chính tôi và Ngọc Yến, một cô bạn cùng lớp. Thủy bị tôi rủ đi theo gặp anh mấy lần để lấy và trả tập bản kẽm, thì lại mắc vào một cái duyên khác “duyên nợ ba sinh” với anh sau này. Thật tình, lúc đó anh làm tôi rất cảm động vì thấy “nhà thơ lớn” mà sao lại dễ dãi với “đàn em nhỏ” như tôi mượn gì là được nấy. (Chắc tại nghe tôi khoe là “em nuôi” của chị Duyên?). Về sau, tôi còn… khám phá ra do gia đình có quan hệ dây mơ rễ má thế nào đó, mẹ của anh gọi ba tôi bằng cậu, tức là tôi tới vai “dì” của anh Nhiên lận. Chao ôi, thật là oai ghê!

Nhưng thú thật, anh có một cái tật mà tôi rất… kỵ là mỗi khi lỡ nói gì trái ý là anh chau mày, bậm môi, đôi mắt cúi gầm xuống, hai bàn tay chập vào nhau chống trước trán, lầm lì không nói gì hết cho đến lúc… bỏ đi. Có lúc tức quá, tôi bảo Thủy: “Ông này cứ làm như đang đóng kịch vậy đó mầy ơi!... thấy ghét!”. Thủy rất hiền, nhút nhát, ít nói, nên cô nàng chỉ cười lặng lẽ, không ý kiến. Cũng vì tính tình như vậy nên thư tình, quà cáp gì của anh Nhiên gửi cho Thủy sau này cũng một tay tôi chuyển giúp. Cứ tan trường, hai đứa đi bộ về nhà chỉ cần nhác thấy bóng chiếc Honda của anh Nhiên sắp lạng tới là Thủy đẩy tôi ra phía ngoài để nó đi bên trong, tránh nói chuyện hay nhận thư, quà từ anh. Vừa sợ vừa muốn cho xong, nên tôi cứ nhận đại rồi đưa qua cho Thủy ngay sau khi anh đã phóng xe đi mất. Thủy vừa nhận vừa phản đối nên tôi cũng không biết rõ cô nàng có… chịu chàng hay là không. Nhưng tôi thì thấy vui lắm vì nghĩ rằng mình đang làm chứng nhân cho một mối tình cũng lãng mạn quá đấy chứ. Cũng nhờ vậy mà có lần tôi được “ăn theo” với Thủy, lần đó, anh Nhiên rà xe cạnh tôi dúi nhanh một cái bọc và nói trước khi phóng xe đi: “Thuốc… bổ óc đó, một cho Dung, một cho Thủy, ráng uống để mà thức học bài thi”. Tôi đưa cho Thủy bọc thuốc, cảm động một chút, vui vui một chút, coi vậy mà anh chàng cũng… biết điệu quá đó chứ! Lúc ấy, anh Nhiên đã bắt đầu thân thiết với tôi, thỉnh thoảng cứ chạy xe đến nhà tôi đưa thư, kể lể mọi chuyện… Có một hôm, đang ngồi trong nhà tự dưng thấy anh chạy xe đạp xồng xộc tới, vừa dựng xe, vừa thở hào hồn kể cho tôi nghe chuyện “gây gổ” giữa anh với anh T., em của chị Duyên, mới vừa xảy ra ở quán cà phê gần nhà tôi. Câu chuyện bắt đầu từ bài viết “Hột mè” của anh đăng trên báo Văn thì phải? Anh nói: “Thằng T. nói anh viết bài này “chửi” chị nó độc quá, nên nó tức đòi đánh anh…”. Tôi có đọc qua bài đó nên cười an ủi: “Anh viết cũng nặng tay lắm chứ bộ. Anh T. tức là đúng rồi. Thôi ai biểu viết mà chọc giận người ta làm chi. Chửi người khác mà anh vui sao?” Trước khi ra về anh còn nói như thật: “Lần sau, anh không có nhịn đâu.” Tôi cười vì biết tính anh nói thì… dữ nhưng chẳng làm gì hại ai cả. Chắc cũng vì chuyện này mà thời gian sau anh đã viết “Bài tạ lỗi cùng người” có những câu thật cảm động:

“Năm năm trời… ta làm tên quái đản
Cầu danh trên nước mắt người tình
Năm năm trời có nhục có vinh
Có chua, chát, ngọt, bùi, cay, đắng…
Có hai mái đầu chia nhau thù oán
Có thằng ta trút nạn xuống vai em!
Năm năm trời… có một tên Duyên
Ta ca tụng rồi chính ta bôi lọ
Tình ta đẹp nhưng tính ta còn nít nhỏ
Nên lỗi lầm đã đục màu sông
Nếu em còn thương mến tuổi mười lăm
Xin nuốt hận mỉm môi cười xí xóa
Hồn ta đẹp nhưng đời ta thảm quá
Nên tị hiềm nhen nhúm giữa ngây thơ
Nếu em còn chút đỉnh mộng mơ
Xin rộng lượng thứ dung người lỡ dại.”

Tôi dạo ấy cũng… hơi lo dùm cho Thủy, Thủy học rất giỏi, giỏi nhất trường, xinh xắn, tài năng toàn diện, ai cũng quí mến, còn cái ông nhà thơ này sao ngày nào cũng đón đường, tỏ tình, tỏ ý với Thủy mà làm thơ thì cứ thấy ca tụng hết cô này đến cô khác. Vậy thì thương thiệt hay giả đây?

Cho nên, đến khi Thủy năn nỉ nhờ tôi mang trả lại hết quà cáp, thư từ cho anh Nhiên, tôi đã… ngây thơ thương bạn, nhận lời mà có biết đâu tự mình đi đón nhận phong ba bão tố. Sau khi biết tôi mang mọi thứ đi trả giùm cho Thủy, anh Nhiên đã mắng tôi và đổ thừa tại tôi… xúi Thủy tuyệt tình với anh. Tôi tức điên lên và cãi với anh một trận tơi bời hoa lá. Anh giận tôi đến độ còn dọa sẽ viết một bài… chửi tôi trên báo để cho tôi biết tay anh. (May là chắc anh nghĩ lại, thấy “tội” của tôi còn nhẹ hoặc biết là không có tội gì hết, nên không có bài nào nêu đích danh tôi để… trả thù, trừ một câu trong bài thơ “Kẻ tự đóng đinh tim” đã ví tôi là “quỷ sứ” mà sau này qua Thủy tôi mới biết. Đó là câu: “Lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân. Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ.” Chứ nếu không chắc tôi cũng đã được anh đưa vào… văn học sử bằng một ngõ… tối tăm rồi!). Từ đó, tôi với anh Nhiên bắt đầu một mối thù… không tên, và cứ mỗi khi Thủy nhắc tới anh Nhiên là tôi tha hồ mà… đay nghiến. Lúc này, tôi đã thực sự giận ghét anh Nhiên và muốn cho Thủy đừng thèm “mềm lòng” với cái anh chàng nghệ sĩ tài hoa mà gàn dở này nữa.

Nhưng khi đọc bài thơ“Thục nữ”, là bài đầu tiên anh Nhiên viết cho Thủy, với hình ảnh Thủy trong thơ và Thủy ngoài đời là một, rất thật, rất dễ nhận ra với tóc bính, nón lá, hài nhung, mảnh mai, nhẹ nhàng, vô cùng thục nữ đã làm tôi xúc động:

“Chiều em đi hai hàng bính tóc
Gieo xuống đôi vai nhỏ thiệt thà
Còn bao nhiêu dấu hài khuê các
Sao đành gieo xuống phố đời ta?

Chiều em đi nón lá che nghiêng
Sao đành che mất nụ cười duyên?
Mây vẫn chưa về gom bớt nắng
Trần ai đông lắm kẻ si tình.

Chiều em đi trong nắng trời tây
Bóng đổ lênh đênh – bóng đổ gầy
Bóng đổ gầy như ta ốm yếu
Đeo đẳng hoài theo tình không may

Chiều em đi bước ngại bước ngùng
Như sợ làm đau ngọn cỏ nhung
Như sợ bay lên từng đóa bụi
Sao khách tài hoa nát cả lòng?

Chiều em vui quá thuở vàng son
Ta bỗng lang thang khắp ngả đường
Ta đi cho chết thời oanh liệt
Cho thấu một trời đau đớn riêng!”

Bài “Giữa trần gian tuyệt vọng” là bài thứ hai anh đã viết gửi cho Thủy với những lời bày tỏ chân tình, nhưng đã khiến cho Thủy giận hờn, ấm ức nhờ tôi mang trả lại thư từ, quà tặng của anh và đã là nguyên nhân khiến tôi phải… rước họa vào thân. Đó là những câu:

“Ta vẫn nhớ trưa nào em ngồi hát
Ta vẫn thèm hôn lên mắt tiểu thơ buồn
Ta vẫn thèm ăn năn những lúc đón đường
(Em khó chịu… mà thư nào em cũng nhận)”

Sau khi biết vì mình mà tôi và anh Nhiên đã không thèm nhìn mặt nhau nữa, thì Thủy ít nhắc nhở tới anh hơn và lặng thinh mỗi lần nghe tôi kể tội anh đã mắng nhiếc, sỉ vả tôi như thế nào. Anh Nhiên thì phải tự động tìm cách để… nối nhịp cầu tri âm với Thủy một mình vì không còn cái nhịp cầu mang tên… Dung nữa.

Mãi cho đến một buổi chiều kia, tan học về, Thủy báo cho tôi biết: “Ông Hải (tôi và Thủy vẫn quen gọi anh bằng tên thật là Hải, dù anh đã nổi tiếng và mọi người luôn gọi anh bằng tên Nguyễn Tất Nhiên) nói chiều thứ Sáu hàng tuần có chương trình giới thiệu nhạc mới ở radio, thứ Sáu này nhớ đón nghe vì sẽ có bài thơ “Hai năm tình lận đận” ổng làm cho tao được Phạm Duy phổ nhạc, hát lần đầu.” Tôi nhìn Thủy ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Ông này coi vậy mà cũng… khôn, biết cách giải mã “độc đáo” thiệt, như thế này thì Thủy có… chạy đàng trời.” Tôi tuy còn ấm ức vì… mối hận lòng, “oan Thị Kính” vẫn còn đầy ứ mỗi khi nhớ tới, nhưng cũng thấy vui và hãnh diện lây với bạn. “À há, như vậy mi đã bắt đầu được đi vào văn học sử rồi đó nha”. Cũng nhờ vậy, chiều thứ Sáu đó, tôi đã được thưởng thức trọn vẹn bài hát “Hai năm tình lận đận” với âm điệu nhẹ nhàng, buồn rầu đến tội nghiệp qua tiếng hát dễ thương, nồng nàn của Duy Quang:

“Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng xanh xao
Mùa đông hai đứa lạnh
Cùng thở dài như nhau.

Em không còn thắt bím
Nuôi dưỡng thời ngây thơ
Anh không còn luýnh quýnh
Giữa sân trường trao thư

Hai năm tình lận đận
Hai đứa đành xa nhau

Em vẫn còn mắt liếc
Anh vẫn còn nôn nao
Ngoài đường em bước chậm
Trong quán chiều anh ngóng cổ cao.

Em bây giờ có lẽ
Toan tính chuyện lọc lừa
Anh bây giờ có lẽ
Xin làm người tình thua.
…………………………
Hai năm tình lận đận
Em đã già hơn xưa!”

Tôi đã bật cười khi nghe Thủy kể lại, hai câu cuối của bài thơ này đã làm… động lòng Lâm Diễm, một đứa bạn cùng lớp với chúng tôi, khi nó đọc thấy bài thơ đăng trên báo trước khi được phổ nhạc. Diễm vào lớp báo ngay với Thủy: “Thủy ơi, ông Hải làm thơ chê mày… già”.

Sau khi nghe bài hát này tôi thầm nghĩ, Thủy đã không thể thoát khỏi lưới tình nữa rồi. Thủy vốn yêu thích thơ văn, cũng như tôi và số đông bạn bè cùng lứa lúc ấy, rất hâm mộ thơ Nguyễn Tất Nhiên, Thủy đã được làm “nàng thơ” của thi sĩ, nay lại được dòng nhạc của Phạm Duy đưa hình ảnh “thắt bím” của mình chắp cánh bay xa. Còn gì hơn! Nhưng chúng tôi không có thời giờ để hỏi han những chuyện vớ vẩn nào khác nữa. Tất cả thời gian còn lại là học thi, thi Tú tài II. Tôi quên bẵng đi chuyện tình của anh Nhiên và Thủy để lo học.

Rồi đến lúc lên Sài Gòn vào đại học, tôi và Thủy lại cùng ở trọ với nhau, chắc Thủy nghĩ là tôi còn giận anh Nhiên lắm, vì mỗi lần Thủy nhắc tới anh là cứ nghe tôi châm chọc: “Ông ấy là ai? Tưởng mình là nhà thơ lớn… ngon lắm hở?”. Không nhớ tôi có nói gì nặng hơn nữa không mà Thủy càng ngần ngại, dè dặt tránh nói về anh trước mặt tôi. Tôi học bên Văn khoa, Thủy học ở Đại học Vạn Hạnh, bên kia cầu Trương Minh Giảng. Bởi thế, bài “Chở em đi học trường đêm” có đoạn:

“Chở em đi học mưa, chiều
Tóc hai đứa ủ đôi điều xót xa
Mưa thánh thót, mưa ngân nga
(Hình như có bão băng qua thị thành)
……………………………………
Đèo nhau qua đoạn đời này
Cầu Trương Minh Giảng nghe đầy hoàng hôn...”

Tôi cứ tưởng là viết cho Thủy, nhưng sau này khi hỏi lại, Thủy nói: “Ổng viết cho… con nhỏ khác mày ơi!”. Tôi giật mình và cảm thấy bất mãn vì nghĩ rằng các ông văn thi sĩ chắc không chỉ có bốn ngăn tim, nên mới có thể chứa đựng được một lúc nhiều hình bóng đến như vậy! Bài thơ “Khởi tự mê cuồng” anh viết năm 74, mới là bài anh viết cho Thủy, nên vẫn thấy bóng dáng Thủy đâu đó, mặc dù lúc này Thủy và anh đã không còn liên lạc với nhau.

“Trời mưa, không lớn lắm
nhưng đủ ướt đôi đầu!
Tình yêu, không đáng lắm
nhưng đủ làm… tiêu nhau!

Đường người, vui có chăng
ta trùng điệp u buồn
nhớ ai mà tóc rụng
ngóng ai muốn đục tròng.
…………………………
Đường người, đau có chăng
em tính còn ham chơi
lưng ngoan dòng tóc bím
môi trinh non thích cười
Chiều chiều hay giỡn nắng
tình trôi kệ tình trôi…”

Sau 30 tháng 4 năm 75, chúng tôi chia tay nhau, Thủy tiếp tục học và về làm việc ở Biên Hòa. Tôi thì lưu lạc đến Long Thành làm nghề “gõ đầu trẻ”. Công việc bận rộn nên chúng tôi cũng liên lạc ít hơn. Thủy và tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nhau trong những ngày cuối tuần khi tôi trở về nhà.

Tôi không biết rõ mối quan hệ của anh và Thủy bắt đầu lại từ lúc nào, mãi cho đến khoảng giữa năm 78, một hôm, Thủy đột ngột đến tìm tôi vào buổi trưa, chúng tôi kéo nhau lên lầu nói chuyện. Thủy ngần ngại, rào đón một lúc lâu mới báo tin là sắp đám hỏi với anh Nhiên. Thấy tôi lặng thinh, Thủy hỏi: “Mày bất ngờ không?... thất vọng không?”. Tôi biết Thủy vẫn còn nhớ “mối thù” của tôi với anh Nhiên lúc trước, nên cười và lắc đầu: “Chuyện cũ, chuyện nít nhỏ, tao quên rồi. Đừng nhắc tới nữa. Vậy là “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” rồi. Mày có cần gì tới tao không?” Thủy thở phào nhẹ nhõm: “Có chứ, mời mày tới dự đám hỏi, nhớ tới sớm sớm để phụ tao nha nhỏ.” Không hiểu sao lúc đó, tôi vừa mừng lại vừa lo cho Thủy, Thủy dịu dàng, yếu đuối và sống “kín cổng cao tường” trong mái ấm của đại gia đình từ bé, còn anh Nhiên, đời sống luôn quay quắt với dư luận khắc nghiệt và lang bạt kỳ hồ, như trong thơ anh vẫn thường khẳng định: “Em có một đời rong xanh mơ đá. Tôi có ngàn năm say khước hận thù” (Bài thấm mệt đầu tiên) hay “Chim trong tổ biết chi đời giông bão. Em con cưng nào biết tuổi lưu đày”“Em gia giáo phải lòng anh lang bạt” (Uyên ương). Liệu Thủy sẽ được bình yên, hạnh phúc hay sẽ lao đao với sóng gió cuộc đời?

Thời gian này, bài “Nụ hôn đầu” với những câu:

“Gian truân lắm mới hôn người
Chiếc hôn tình lớn đem đời theo nhau.
………………………………
Hôn em chấn động đầu đời.
Chiếc hôn tình lớn kiếp người đôi giây.”

Và “Cuối tháng Tám”, không hiểu đã cảm nhận được điều gì mà cả hai bài thơ của anh viết cho Thủy đầy những lời ăn năn, thống hối:

“Khổ đau oằn nặng sinh thời
yêu ai tôi chỉ có lời thở than,
có môi hôn trộm vội vàng
khiến em hoảng hốt trong cơn tình đầu
nụ cười giữ được bao lâu
nhân sinh là một dòng sầu miên man
sông dài rồi cũng chia phân
tình bao nhiêu lớn cũng tàn phai thôi
Tôi đam mê siết thân người
hay đâu tảng đá đeo đời trăm năm.
Em gầy guộc, em mong manh
Em chưa đủ sức long đong cùng chàng
Em ngây thơ đến rỡ ràng
Em chưa đủ lượng khoan hồng thứ dung
Em tội nghiệp, em tủi thân
Em chưa tự chủ kíp nhăn lệ tràn
Lôi người té sấp gian nan
Lỗi tôi, ừ đó, muôn phần lỗi tôi.”

Đến ngày đám hỏi của Thủy và anh Nhiên, tôi mới biết chỉ có tôi là đứa bạn duy nhất được Thủy mời trong đám đông của gia đình hai họ.

Lần gặp lại đầu tiên sau mấy năm không nhìn mặt nhau ở đám hỏi, được coi như là một nhịp cầu nối lại mối quan hệ giữa tôi và anh Nhiên. Anh tỏ vẻ quí mến tôi hơn và thỉnh thoảng hay ghé nhà tôi để hỏi thăm hoặc nhắn tin cho Thủy

Có một chuyện khiến tôi cảm động và nhớ mãi là một buổi trưa vừa từ trường về nhà trọ sau mấy giờ dạy, thay chiếc áo dài xong thì nghe tiếng gõ cửa và sau đó là giọng của Thảo, chị bạn cùng nhà gọi: “Dung ơi, có ai kiếm kìa.” Nhà chúng tôi ở là một căn biệt thự khá lớn của một chị bạn dạy cùng trường, mấy ngày trước 30 tháng 4, chợ Long Thành bị pháo kích, sập gần hết, nhà chị cạnh đó nên cũng bị một quả ngay vào giữa, căn nhà như bị cắt ra làm đôi. Phần phía trước chỉ còn cái mặt tiền và khung cửa sắt là nguyên vẹn, hai phòng phía sau, sâu vào trong, nơi không bị hề hấn gì, là nơi mà nhóm giáo viên chúng tôi chia nhau ở, được nối bằng một khoảnh đất nhỏ mà trước đó dùng để trồng hoa kiểng và một cánh cửa lớn bằng gỗ. Tôi vội chạy lên và ngạc nhiên khi thấy anh Nhiên đứng sừng sững ngay khung cửa với chiếc xe đạp bên cạnh. Anh nhìn tôi đang ngó anh trân trối, nhe răng cười hỏi: “Sao? không mời vô à?” Tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên vì sự xuất hiện bất ngờ của anh. “Ủa, anh đi đâu đây? Sao biết Dung ở chỗ này?” Anh dựng xe sang bên, một tay giở nón, một tay lau mồ hôi trán và nói: “Nghe Thủy nói Dung dạy học ở trường Long Thành, nhà anh có rẫy cũng gần đây, sẵn đi ngang ghé vô trường hỏi, họ nói Dung mới đi về, rồi chỉ nhà cho anh đó chứ.” Tôi mời anh vô trong uống nước và giới thiệu với chị Thảo: “Anh này là thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên đó!”. Chị Thảo tròn xoe mắt nhìn anh: “Vậy hả? Trời ơi, nghe tiếng quá chừng mà bây giờ mới gặp đó nha.” Anh Nhiên chỉ cười và không nói năng gì. Hỏi thăm nhau được một chút, anh từ giã ra về còn hỏi tôi: “Dung có cần nhắn gì về nhà không? Anh ghé qua nhắn cho”. Bỗng dưng tôi nhớ tới chục ký gạo vừa đươc lãnh sáng nay ở trường theo tiêu chuẩn công nhân viên nhà nước, và tôi đã làm một việc vô cùng tệ hại mà sau này lúc kể cho Thủy nghe hoặc nhớ tới, tôi vẫn còn áy náy và rất xấu hổ là : “Anh Hải chở dùm bao gạo này ghé qua nhà đưa cho má Dung được hông?”. Tôi thấy đôi mày anh cau lại, trán nhăn nhăn, môi mím chặt, nhưng cũng gật đầu: “Ừ, thì để anh chở cho”. Tôi giúp anh khuân bọc gạo lên để phía sau “boọc ba ga”, cột dây cẩn thận, cám ơn anh, chào tạm biệt và… tỉnh bơ, mãi cho đến khi đưa anh ra tới cửa ngoài thấy anh bắt đầu gò lưng trên chiếc xe đạp tôi mới giật mình. Tiếng chị Thảo phía sau tôi vang lên: “Trời ơi, mày ác quá trời đi người ta tới thăm mà còn bắt chở bao gạo về dùm nữa, nặng lắm đó, một chút lên tới dốc 47 làm sao ổng lên nổi!” (Dốc 47 là cái dốc rất cao ở gần ngã ba Thái Lan giữa đường đi Biên Hòa và Long Thành). Tôi mới bắt đầu hối hận và thấy mình…vô duyên quá đỗi!

Cứ tưởng mọi việc sẽ được tiến hành êm đẹp như đã định, Thủy và anh Nhiên sẽ làm đám cưới cuối năm đó. Nhưng không ngờ, bao ngang trái cuộc đời không hẹn mà cứ đến đe dọa cho mối tình của hai người, lý do từ việc có nhiều dư luận về anh Nhiên đã đến tai gia đình Thủy. Lúc này, tôi đã đổi về Biên Hòa để đi học lại, nên Thủy thường gặp tôi sau những giờ làm việc, tâm sự, thở than về những ngăn cấm của gia đình và đôi khi nhờ tôi làm “bình phong” để Thủy và anh Nhiên hẹn hò nhau.

Bài “1978 ở Việt Nam” chắc anh đã viết trong lúc tâm trạng u uất, chán chường về sự đổi thay của xã hội lẫn hoàn cảnh riêng tư của chính mình:

“Phu thê nếu phải nợ rồi
Thì tôi đâu ngại ngỏ lời yêu em

Như con chim mới tập chuyền
Bâng khuâng gấm lụa thánh hiền em ra
Mặt trời rực rỡ phương xa
Ở đây hạnh phúc chỉ là đau thương.
…………………………………

Phu thê nếu đã buộc ràng
Thì xin nhẫn nhục cưu mang vợ chồng
Tôi, quanh năm sống hoang đàng
Cũng xin nhỏ lệ hoàn lương khóc tình!

Rồi đến bài thơ “Uyên ương” với những câu thật não lòng:

“Có những chiều ta muốn hôn em, rồi khóc
Mùa bình an nào chờ đợi uyên ương?
Nhớ hôm xưa em mảnh khảnh tan trường
Hương trinh khiết ngây ngây chiều nắng lụa.
………………………………..
Nhớ hôm xưa em bình minh thiếu nữ
Môi vô tư chưa bợn nhuốm hơi người
Tay măng tơ chưa vọc nước dòng đời
Tóc bính thảnh thơi chưa phiền khói thuốc

Ta lẽo đẽo theo tình ê ẩm bước
Để chiều về nhẹ thấm thía gian nan!
Nhớ hôm xưa em mơ mộng nhẹ nhàng
Hay hát khẽ đôi bài tình man mác.

Chim trong tổ biết chi đời giông bão
Em con cưng nào biết buổi lưu đày…”

Nhưng rốt cuộc, Thủy đã quyết định cùng với gia đình anh Nhiên rời khỏi Việt Nam cuối năm 78, sau những tháng ngày dài nổi trôi cùng vận nước và cả vận mệnh của chính mình. Một năm sau, tôi mới nhận được lá thư đầu tiên có kèm theo hai tấm hình của Thủy và anh Nhiên chụp ở vườn Luxembourg trong mùa thu, đầy lá vàng, lãng mạn, tuyệt đẹp, mới biết là hai người đã định cư ở Pháp. Nhờ địa chỉ đó nên tháng tư năm 81, sang đến đảo Ga Lăng, Indo, tôi đã liên lạc được với Thủy. Không ngờ, Thủy vẫn nhớ và gửi quyển “Thơ Nguyễn Tất Nhiên” gồm những bài từ tập “Thiên tai” và những bài thơ sáng tác từ 1970 đến 1980, đã được ấn hành lại ở Pháp, làm quà sinh nhật cho tôi trên đảo. Tập thơ này quả là một món quà vô cùng quí báu lúc bấy giờ đối với bọn chúng tôi gồm một đám thanh niên cùng mê thơ Nguyễn Tất Nhiên, cả mấy tháng trời, đêm nào cũng mang ra vừa đọc vừa bàn luận, thật sôi nổi, hào hứng.

Đến tháng mười, tôi được các em bảo lãnh sang Mỹ, về ở Missouri. Anh Nhiên và Thủy cũng đã dọn về Cali từ tháng tư.

Chúng tôi thư từ, điện thoại thăm hỏi nhau nhưng vẫn chưa gặp mặt, Thủy và tôi cùng bận rộn với đời sống mới mà lại ở xa nhau, nên ngay cả đám cưới tôi tổ chức ở Utah, Thủy cũng không có dịp sang dự. Cho mãi đến hôm tôi sinh cô con gái đầu lòng khoảng một tuần, thì Thủy gọi phone báo tin là sẽ đi xe bus Greyhound sang thăm tôi. Đó là lần đầu tiên tôi gặp lại bạn sau 6 năm xa cách. Thủy không thay đổi tí nào, vẫn dáng dấp học trò, vẫn gầy gầy, nhỏ nhắn, gương mặt, nụ cười vẫn hệt như thời còn đi học, mặc dù bây giờ đã có thêm hai chú nhóc, Tí Anh đã ba tuổi và Tí Em sắp lên hai, lúc nào cũng quấn bên chân mẹ. Trong dịp này, Thủy đã kể cho tôi nghe hết về cuộc sống từ ngày rời Việt Nam, với những ngày đầu vất vả nhưng hạnh phúc ở Pháp, đến những khi sóng gió vì đời sống nghệ sĩ lang bạt, bất đắc chí của anh Nhiên ở Mỹ, cả đến những cay đắng mà Thủy phải chịu đựng để chu toàn cái hình ảnh của “một người vợ, một người đàn bà thuần túy Á Đông, chỉ biết phục tùng chồng và tuyệt đối không nên để ý hoặc thắc mắc gì về những quan hệ công việc bên ngoài của chồng.” mà anh Nhiên vẫn luôn nhắc nhở Thủy mỗi khi có chuyện bất đồng. Tôi ngạc nhiên và không ngờ đứa bạn với bề ngoài yếu đuối như Thủy mà có thể chịu đựng được ngần ấy thứ đau khổ, trắc trở trong cuộc đời làm vợ của nhà thơ. Thủy nói lần này, sau khi trở về, hai người sẽ quyết định chia tay. Thoạt tiên, tôi hơi ngỡ ngàng, nhưng sau đó, khi nhìn thấy hai đứa bé đang hồn nhiên, quấn quýt bên Thủy, tôi giận anh Nhiên quá sức, tại sao có mái gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc thế này mà anh không chịu gìn giữ? Tôi muốn an ủi Thủy, nhưng an ủi thế nào khi tôi cũng không biết phải xử trí làm sao trong hoàn cảnh ấy. Thủy định là sẽ ở chơi với tôi đến hai tuần nhưng chỉ một tuần Thủy đã đổi vé về lại Cali, sau những cú phone dồn dập của anh Nhiên. Mấy hôm sau, Thủy gọi để báo tin là sóng gió đã tạm dừng, dù không biết là chàng sẽ giữ lời hứa đến bao lâu. Tôi mừng cho Thủy và thầm cầu nguyện cho cái tổ ấm của Thủy sẽ bình yên, sáng sủa hơn sau cơn bão tố vừa qua.

Năm 86, gia đình tôi dọn về Cali, căn nhà nhỏ của chúng tôi ở Gardena, thỉnh thoảng đón tiếp Thủy và hai cậu con trai đến chơi, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ thấy anh Nhiên đi cùng. Thủy tâm sự: “Tao chỉ là một người đàn bà bình thường, mơ có một mái ấm gia đình rất bình thường như những người đàn bà khác, nhưng với tao sao nó khó khăn, xa vời quá mày ơi!”. Nghe Thủy nói, tôi càng thấm thía hơn ý nghĩa của cái thuyết “hồng nhan bạc phận”, của “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, càng thấy xót xa và thương bạn hơn. Có lúc, tôi đã phải nói với Thủy: “Tao thì chỉ biết “yêu thơ” thôi chứ không có “can đảm” để “yêu nhà thơ” như mày, sao mà khổ quá đi!”

Từ lúc sang Mỹ dù đã xuất bản được tập thơ “Chuông mơ” (1987), “Tâm Dung” (1989) và cả việc sáng tác nhạc để ra đời băng nhạc “Tình khúc Nguyễn Tất Nhiên” nữa, nhưng anh vẫn là một người “bất đắc chí”, cay đắng với cuộc đời, hờ hững với trách nhiệm gia đình và đó có phải là nguyên nhân khiến anh trở thành một con người khác, một hình ảnh bất toàn hơn trong đời sống gia đình chăng?

Có lẽ vì biết quá nhiều về những bất hạnh từ đầu của hai chữ “nợ duyên” giữa anh Nhiên và Thủy, nên tôi đã đứng về phía bạn khi Thủy dứt khoát đoạn tuyệt với những khổ đau, oan nghiệt của quá khứ, hiện tại và có thể sẽ mãi còn tiếp diễn ở tương lai để chọn một cuộc sống bình an hơn cho Thủy và nhất là hai đứa con, nên tôi đã lặng thinh khi anh Nhiên gọi tôi để hỏi về tung tích của Thủy. Và đó là lần thứ hai, tôi lại bị anh mắng nhiếc thậm tệ, bằng những lời nhắn nặng nề trên máy answering. Lúc đó, tôi nghĩ, cứ để cho anh nghiền ngẫm, rồi tỉnh thức, nhận ra và biết quí báu những gì mình đã có, ân cần với đời sống và trách nhiệm hơn để có thể định hướng lại tương lai của mình. Nhưng không ngờ, anh đã quá yếu đuối và dễ tuyệt vọng đến độ phải chọn sự kết thúc bi thảm đến vậy! Lúc nghe tin anh mất, là lúc tôi đang trong giờ lunch ở một hãng điện tử. Sửng sốt, kinh ngạc… tôi nuốt không trôi miếng cơm còn đang nhai dở trong miệng. Tôi muốn về nhà ngay để gọi cho Thủy…

Thời gian qua nhanh như cơn gió thoảng, mới đó mà đã mười mấy năm. Cuộc sống vẫn nối tiếp với những định mệnh đã được an bày. Các con anh nay đã khôn lớn, trưởng thành. Thủy đã tìm được bờ bến bình yên và đang có một đời sống hôn nhân hạnh phúc, điều mà trước kia tưởng chừng sẽ không bao giờ có được.

Giờ đây, dưới những tàn cây, bóng mát trong nghĩa trang này, tôi đến thăm mộ anh, thắp nén hương lòng hoài niệm về một thời quá khứ buồn nhiều hơn vui giữa chúng tôi, dù không biết rằng những việc làm trước kia đối với anh là đúng hay sai, nhưng tôi cũng muốn nói với anh lời tạ lỗi. Có những điều khi còn sống chúng ta chưa có dịp phân trần, tỏ bày cho hết thì đến lúc lìa đời, cũng xin được có cơ hội để hòa giải, thứ tha. Chỉ tiếc một điều là những câu thơ anh viết lúc còn trẻ, khi đọc lên cứ tưởng sẽ là “lá bùa hộ mạng” cho anh, đã không nâng đỡ, vực dậy anh trước khi anh quyết định đi về một đời sống khác:

“Nếu vì em mà thiên tài chán sống
thì cũng vì em ta ngại bước xa đời”.

(Để tưởng nhớ thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, nhân ngày giỗ thứ 15 của anh, tháng Tám, 2008)

Nguồn: Hợp Lưu, California, Hoa Kỳ, số 101, tháng 7&8 /2008. Đăng lại trên talawas với sự đồng ý của tác giả.

Tưởng Dung sinh năm 1955 tại Biên Hòa. Sang Mỹ năm 1981. Hiện sống và làm việc tại Los Angeles, California. Cộng tác với các tạp chí Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Phụ Nữ Diễn Đàn, nhohue.org và ngo-quyen.org.

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2008

HOÀNG THỊ THIỀU ANH

HOÀNG THỊ THIỀU ANH







LỤC BÁT ĐÊM

Em đi gần nửa cuộc đời.

Buồn ư? Cứ hét cho người điếc tai.

Buông chi một tiếng thở dài?

Để cho đêm lặn vào ngày, khổ chưa?

Tham lam biết mấy cho vừa?

Bao nhiêu uất ức đổ bừa vào nhau

Thế gian được mấy túi sầu?

Mà em phải gánh qua cầu, đêm nay?

ĐỘC THOẠI

Ngoài kia sương não nề rơi.

Hay chăng nỗi nhớ qua đời nửa đêm

Người ta xa vắng im lìm

Mình tôi ngồi với bóng chìm thiên thu

Tình sao lặng tựa sương mù

Trăm năm gục giữa ngục tù chiêm bao

Tình ơi!

Tình lặng!

Gầy hao!

Chợt tôi hư – thực hanh hao một mình.

NẺO NHỚ

Nằm nghe mưa rỉ rả.

Nhớ thời son ngông cuồng.

Đội mưa long nhong phố

Mặc xác…mai rẹp giường.

Ừ! Điên là thế đấy!

Có ai bảo ta điên?

Đời có chi muộn phiền.

Nhờ mưa về gột tẩy

Ai hay chăng được chớ?

Có mưa bầu bạn cùng?

Chỉ có ta vui sướng!

Mưa ru giấc xuân nồng

ƯỚC…

Người ơi giá có phép tiên

Em xin lam nắng tháng giêng ngọt ngào

Ru đời một khúc đồng dao

Ru người một nỗi buồn chao chát buồn

EM!

Em!

Người đàn bà của đêm.

Trầm tư đối diện

bên thềm mong manh.

Em!

Người đàn bà của chiến tranh

Hạt nhân.

Nổi loạn.

Đời thành bể dâu.

Em là bom thét đạn gào.

Cho anh thương tích khổ đau một đời:

THIỀU ANH

TÌNH LẶNG

Gịot buồn rơi trong vắt

Len lỏi…buồn đi hoang

Khẽ rơi một tiếng đàn

Cho mưa xanh tình tứ

Nắng đã vàng vỉa phố

Gió đã mềm tóc ai

Và anh như hàng cây

Chờ em bên phố vắng

Tình ơi!

Tình dù lặng.

Để đêm về…ăn năn?!?

HEO MAY VÀ BÃO

Lòng anh cơn bão lớn

Lòng em là heo may

Bão như cơn cuồng nộ

Rơi buốt theo tháng ngày

Tình em như heo may

Suốt mùa yêu thổi mãi

Anh ơi, anh có hay?

Khẽ thôi mà tê dại

TA

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2008

TS Lê Đăng Doanh

Nguồn Đài RFA
2008.04.15

Nhận định của TS Lê Đăng Doanh

về thư ngỏ của cựu TT Võ Văn Kiệt



Nam Nguyên, phóng viên đài RFA

Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt trong thư ngỏ mới nhất được các báo đăng tải, đã đặt vấn đề về sự chệch đường trong thực hiện chính sách công nghiệp hóa, khiến nông dân và người nghèo không được hưởng lợi. Thông điệp của nhân vật từng lãnh đạo Việt Nam thời kỳ đổi mới đầu thập niên 1990 mang những ý nghĩa gì? Nam Nguyên tìm hiểu vấn đề này qua cuộc phỏng vấn Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế nhiều uy tín ở Việt Nam, ông hiện sống và làm việc ở Hà Nội trong lãnh vực nghiên cứu ngoài chính phủ.

Chệch đường trong thực hiện chính sách

Nam Nguyên: Thưa tiến sĩ, phải chăng ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, người nông dân vừa ly nông vừa ly hương và làm việc với đồng lương ít ỏi. vậy là ngược với chủ trương ly nông bất ly hương? Thực tế này như thế nào?

TS Lê Đăng Doanh: Bài của thủ tướng Võ Văn Kiệt có đề cập tới một vấn đề rất quan trọng mà lâu nay ít được nghiên cứu ở Việt Nam: đó là những người di dân, có tình trạng phức tạp là chúng ta hiện nay chưa biết và chưa có công trình nghiên cứu nào về qui mô mức độ di dân, bởi vì người dân di dân ra thành phố không được đăng ký hộ khẩu, không được hưởng chế độ phúc lợi cũng không được hưởng các chương trình xóa đói giảm nghèo của chính phủ và thành phố nơi người ta kiếm sống thì không công nhận đấy là công dân của họ, không đăng ký hộ khẩu ngân sách địa phương không chịu trách nhiệm không bảo đảm, con cái sinh ra không được đi học. Muốn đi học phải chạy tới chạy lui rất khó khăn.

Chính vì vậy quốc hội vừa rồi đã yêu cầu là phải sửa qui chế này. Quay trở lại vấn đề này, chúng ta thấy hiện ra lỗ hổng là nơi địa phương có nhân dân đi biết là họ đi nhưng cũng không chịu trách nhiệm. Địa phương, thành phố nơi họ đến sống và họat động như ở Hà Nội, TPHCM, họ sống thế nào, bao nhiêu người, cũng không nằm trong trách nhiệm của chính quyền nơi đó.

Theo tôi đây là vấn đề trước hết cần có sự điều tra, sửa đổi các chính sách và có những chính sách di dân công khai minh bạch có điều kiện rõ ràng và khắc phục tình trạng di dân bất hợp pháp này. Đây là tôi chưa nói tới tình trạng đồng bào dân tộc từ miền Bắc, từ Thanh Hóa di dân vào Tây Nguyên cũng ở trong tình trạng như vậy.

Các tỉnh Tây Nguyên cũng không giàu có gì, nhưng cứ lâu lâu phải cưu mang vài ba trăm, vài ngàn đồng bào từ miền Bắc vào, lại phải xây lán trại, xây trạm y tế, xây dựng trường học. Những khỏan tiền đó họ xin không được phải lấy từ ngân sách địa phương, nhưng theo tính tóan của bộ tài chánh những người này không phải là công dân của địa phương và không được chuẩn chi. Cho nên quá trình này đúng là một vấn đề phức tạp.

Nam Nguyên: Thưa TS, quốc sách là câu chuyện lớn, một cựu thủ tướng, kiến trúc sư thời kỳ đổi mới phê phán mạnh như vậy. Theo ông có phải là Việt Nam sẽ phải đổi mới một lần nữa trong chính sách phát triển.

TS Lê Đăng Doanh: Theo tôi quá trình công nghiệp hóa cho tới nay đã đạt một số thành tựu nhất định. Tuy vậy vấn đề là chỗ chúng ta đã bỏ quá nhiều vốn vào các công trình lớn mà ít tạo ra được công ăn việc làm. Hiện nay kinh tế quốc doanh chiếm 38% GDP , nhưng sử dụng tới 50% số vốn đầu tư của ngân sách và 70% tín dụng, nhưng chỉ tạo ra được độ 8 tới 9% công ăn việc làm mà thôi.

Gần đây hầu như không tạo ra được công ăn việc làm mới, trong khi đó kinh tế tư nhân được rất ít tín dụng, rất ít trợ giúp từ ngân sách Nhà nước nhưng tạo ra được phần lớn công ăn việc làm. Vấn đề là như vậy cho nên cần bỏ vốn đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đầu tư vào các doanh nghiệp ở vùng nông thôn. Đầu tư vào những mô hình cụm công nghiệp ở vùng nông thôn và đấy là những ý kiến của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt mà tôi hòan tòan ủng hộ.


Phúc lợi của người nghèo?

Nam Nguyên: Như thế có nghĩa là ly nông bất ly hương?

TS Lê Đăng Doanh: Vâng, phải tạo ra mô hình ly nông bất ly hương. Nếu không sẽ lập lại thảm họa ở các thành phố khác như ở châu Mỹ La Tinh ở Mexico hay Bangkok, vấn đề di dân bất hợp pháp tạo ra những vấn đề hết sức phức tạp như ở Bắc Kinh, Thượng Hải ở Trung Quốc. Đấy là những vấn đề tội phạm, trật tự xã hội v.v...

Chúng ta phải nhìn thẳng vào vấn đề này, nhìn nhận thực trạng và phải có nghiên cứu động lực, qui mô và phải có giải pháp rốt ráo với tình trạng di dân bất hợp pháp này. Không thể nhắm mắt là nơi có dân đi không chịu trách nhiệm gì, mà nơi nhận dân đến cũng không có chính sách để đối xử với người ta như một công dân. Tinh thần thay đổi về sổ hộ khẩu mà quốc hội quyết định là bước khởi đầu đúng hướng nhưng cần phải làm nhiều hơn nữa để khắc phục tình trạng này

Nam Nguyên: Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt nhìn nhận là, phúc lợi của người nghèo ở một số nước tư bản cao đến mức mà các nhà lý luận của Việt Nam nên tham khảo. Thưa, ông nhận định gì về điều này.

TS Lê Đăng Doanh: Theo tôi tình trạng phúc lợi ở Việt Nam đang có ba vấn đề. Một là chúng ta chưa có chế độ công khai về kiểm sóat thu chi một cách nghiêm ngặt, vì vậy cho nên rất nhiều nguôn thu ngân sách không thu thuế được.

Thí dụ nguồn thu từ đầu tư bất động sản, nguồn thu từ chứng khóan hoặc nguồn thu từ các phi vụ kinh doanh lọt ra khỏi sự kiểm sóat của Nhà nước, thí dụ báo chí đưa tin buôn lậu than lên tới 10 triệu tấn ở những tỉnh mất nguồn thu rất lớn.

Vì vậy tạo ra sự chênh lệch giàu nghèo, những người giàu thì quá giàu mà lại không đóng góp gì cho xã hội, không có trách nhiệm trong việc xây dựng xã hội đóng góp cho phúc lợi xã hội. Và Nhà nước phải sử dụng nguờn thu từ dầu lửa torng khi nguồn thu này không phải là quá lớn quá nhiều như ở Trung Đông.

Vấn đề thứ hai là Việt Nam chưa pháp lý hóa được qui chế về vấn đề phúc lợi. Tức là chúng ta có chương trình giúp đỡ người nghèo, có chương trình cho trẻ em đi học và chữa bệnh miễn phí, nhưng lại chưa có luật và chưa đưa tiền đến cho người dùng mà lại chuyển tiền cho những cơ quan như là trường học, bệnh viện. Cách làm đó tạo ra sơ hở, có thể ý đồ của chính phủ là tốt nhưng tiền không đến được người nghèo.

Điều thứ ba là thực trạng, chúng ta thấy hiện nay trong chế độ phúc lợi xã hội, người giàu được hưởng nhiều phần về chế độ phúc lợi chữa bệnh mà Nhà nước đưa ra. Tức là người giàu tiếp cận được với bệnh viện tốt hơn và nhiều hơn người nghèo. Đấy là ba vấn đề mà Việt Nam cần phải khắc phục từ nguồn thu đến chi và việc điều tiết xã hội một cách công bằng.

Chính các điều ấy ở các nước khác như Thụy Điển, Đức người ta làm tốt hơn cho nên người ta có chế độ phúc lợi xã hội mà chúng ta chưa biết đến bao giờ có thể mơ tưởng thấy được.

Nam Nguyên: Cảm ơn Tiến sĩ Lê Đăng Doanh về thời giờ ông dành cho đài RFA

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2008

Nguyễn Thượng Hỷ

CÀ PHÊ QUÁN CÓC VÀ TRANH VAN GOGH


Hoạ sĩ Nguyễn Thượng Hỷ

Xem tranh Van Gogh danh hoạ người Hà Lan vẽ quán cà phê trên vỉa hè đường phố nước Pháp, lòng tôi bỗng xao xuyên trước cảnh tập nập nhưng trật tự và lịch sự đó. Trong không gian se lạnh, một tách cà phê nóng và điếu thuốc lá thơm nhìn ngắm nam nữ dập dìu, ai dám nói rằng quán café vỉa hè không sang trọng… Phải nói rằng chỉ có ở Việt Nam mới tồn tại loại café vỉa hè.

Tôi có dịp ở Nhật 6 tháng, tranh thủ tìm không gian rộn ràng như đi hội để thưởng thức ly café ở đây nhưng không có. Có lẽ không gian café ở Pháp đã du nhập vào nước ta như xem bức tranh của Van Gogh vẽ quán café Tabac thì thấy đó là khung cảnh quán café bên lề đường thường thấy ở Việt Nam.

Trước đây ở Huế có rất nhiều quán café học sinh, sinh viên thầy giáo, công chức đến các anh xích lô, thợ hồ, thợ mộc, người dân lao động tha hồ chọn quán. Đa số các quán mọc bên đường, góc ngã tư, góc ngã ba, người uống café ngồi thường chiếm luôn vỉa hè nhưng ngưòi đi bộ chẳng lấy gì làm phiền hà. Hồi đó từ năm 1965 - 1972, ở Huế quán đứng đầu café Lạc Sơn, café Phấn ở phố Trần Hưng Đạo; xuống một chút là café Thọ ở chân cầu Gia Hội; trong thành nội có quán café Tôn gần cổng Hiển Nhơn của Hoàng thành, sau đó có cafe Bà Dì mà sinh viên trường Nghệ thuật (Âm nhạc - Mỹ thuật) hay uống vì các quán này đều có bán các món điểm tâm như xôi, bún … hợp với túi tiền sinh viên chúng tôi. Ngày trước ở Huế có vài quán café khá dễ thương thu hút nhiều bạn trẻ sinh viên như Da Vàng, Góp Gió ở bên đường Lê Lợi thơ mộng, vào trong Thành Nội có quán Dung, Chiều Tím, Vông Vang, Khánh Quỳnh … Có cả một quán café được nhóm sinh viên lấy tên nhân vật nữ nổi tiếng trong “Tiếu ngạo giang hồ” là Doanh Doanh, một quán lấy tên mỏ dầu ở biển Đông miền Nam “Hoa Hồng Chín”. Sau này nhiều quán được giới trẻ - nhất là các sinh viên từ nam ra, từ bắc vào - rất thích ghé vào như dãy quán ở Đập Đá, dãy quán ở đường Trần Thúc Nhẫn, Nguyễn Huệ.

Ở Đà Nẵng có quán café Xứng, café Thành Long ở chợ và bến xe luôn luôn đông khách dân lao động. Ngoài ra còn café Lộng Gió, Tuổi Ngọc. Vào phố cổ Hội An, tôi lại thích vào quán café Chanh mà hiện nay vẫn còn như linh hồn phố cổ. Lên Đà Lạt thì vào quán của các văn nghệ sĩ là café Tùng, một quán nhỏ nhưng rất ấm cúng, trang trí một số bức tranh của hoạ sĩ Đinh Cường, Nguyên Khai. Quán này đã được nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn đưa vào Tiểu thuyết “ Hình như là tình yêu ”, tác phẩm được dân café trẻ ưu ái đón nhận một thời.

Uống café thường đem đến cho ta nhiều cảm giác, nhất là đối với người đi xa khi đến thành phố khác… Vào Sài Gòn trước 75 uống café vỉa hè ở đường Pasteur, đông nhất ở cổng trường Lasan Tabert hay café Duy Tân (tên đã được nhắc đến trong một ca khúc). Sang trọng hơn là vào quán hộp La Pagode, Rex ở đường Tự Do.

Ra Hà Nội năm 1985, ghé quán café Lâm ở phố Nguyễn Hữu Huân là quán nổi tiếng vì treo nhiều tác phẩm của danh hoạ Vịêt Nam từ trường Mỹ thuật Đông Dương. Xuống Hải Phòng mùa hạ thành phố ngợp hoa phượng đỏ thì nên nhâm nhi ly cà café ở chợ Sắt. Nhưng thú vị nhất, chỉ mới đây thôi qua Phú Yên, xe ngừng chạy đêm, uống ly café ở bến xa thành phố Tuy Hoà, giá chỉ một ngàn rưởi nhưng thật ngon. Hồi chưa có cầu bắc qua, khách ngừng đợi ở Bến Thuỷ, Phà Gianh, uống ly café đen nóng với có một chút bơ ở đầu muỗng và thêm một chút muối cũng gây ấn tượng về khẩu vị riêng. Hình như ở Việt Nam các quán café ở ga tàu, bến xe đều dễ uống, cũng dễ hiễu thôi vì giá rẻ.

Bây giờ thì nhiều quán café quá! Nhất là loại quán café hộp, cafeteria, café Bar, café Vườn. Nhiều người kinh doanh quán café ngày nay, dường như đang rất “hot”, là “mode” thời thượng, sính được mở quán café ở trong khu vườn được cải tạo biến hoá nhờ bàn tay nghệ sĩ, nghệ nhân vốn là những người tạo dáng sinh vật cảnh rất hiệu quả. Những quán này chỉ thu hút khách vào hạng đại gia lui tới thôi.

Tôi có cô bạn người Nhật khi vào quán café vườn thắc mắc hỏi tôi vì sao bây giờ từ Bắc vào Nam thấy quán café nào cũng chơii nghệ thuật sắp đặt? Từ cái lu, vại nước, cối đá đến cái xe nước chạy môtơ điện và dĩ nhiên thêm hòn non bộ, suối chảy, tre chuối trồng ven hồ thì không thể thiếu, vài quán còn dùng tre làm chụp đèn hay mua mấy chục cái đèn lồng tại phố cổ Hội An về trang trí từ ngoài cổng vào đến bên trong quán, ra cả ngoài vườn. Cô ta hỏi tiếp phải chăng đây là “phong cách Việt”? Gần đây mấy đại gia sành điệu mua vài cái nhà rường ở miền Trung - chủ yếu ở Huế, Quảng Nam - về đặt ở trung tâm thành phố mở café để câu khách mang nỗi niềm “thương nhớ quê nhà”. Cô bạn Nhật của tôi là kiến trúc sư rất hiểu về kiến trúc cổ Việt Nam lại cắc cớ chất vấn tôi “Nghe ông nói nhà ba gian với gian giữa linh thiêng thờ cúng, còn hai gian bên chỉ có đàn ông mới được nằm nghỉ nhưng tại sao lại trở thành quán café ầm ĩ quá vậy?”

Tôi lắc đầu chào thua!

NTH, tháng 2.2008.

Thứ Hai, 10 tháng 3, 2008

Cao Huy Khanh

Ngày 8.3

-------------------------------------------

CHIẾC NHẪN CƯỚI CỦA MẸ TÔI

Cao Huy Khanh

Vợ tôi vừa bị mất nhẫn cưới lúc nào không hay, có lẽ do rửa chén loay hoay sao đó xà bông làm chiếc nhẫn trơn tuột rớt xuống lỗ cống luôn. Tôi bèøn tháo chiếc nhẫn của mình đưa cho gọi là đeo “bù” nhưng côâ ấy... không chịu làm như thể sợ tôi được “giải phóng” vậy! Thế là lại phải đeo vào, cả lần tháo ra lẫn đeo vào lại đều khá khó khăn khi đó mới thấy à thì ra ngón tay mình bây giờ nó... mập ra!

Xoay xoay chiếc nhẫn trong ngón tay tôi chợt nhớ mẹ tôi quá, trước đây bà cũng chẳng còn chiếc nhẫn cưới của mình nữa vì đã đem đi bán lấy tiền nuôi anh em tôi trong những ngày khó khăn thời bao cấp xa xưa kia. Hẳn bà đã lặng lẽ khóc khi phải đem bán nó đi, món cuối cùng đáng giá trong nhà được đem bán, hồi đó chiếc nhẫn cưới 5 phân bán cũng được kha khá tiền đóng sổ gạo. Trong chiến tranh đã có biết bao “Bà mẹ VN Anh hùng” thì sau chiến tranh không biết có bao nhiêu bà Mẹ bán chợ trời, đi buôn chuyến đường dài lây lất ngày đêm trên tàu hoả ngược xuôi nuôi chồng học tập, nuôi con mất việc lang thang không hộ khẩu. Đau đớn thay đến thời đổi mới, con cái làm ăn sống được, khá giả lên thì bà chẳng còn nữa bởi tuổi già thân gầy guộc không chịu nổi gánh nặng lao lực bao năm đằng đẳng. Chúng tôi đềøu trở thành những đứa con bất hiếu.

Ngược lại với người không còn nhẫn cưới như mẹ tôi, tôi từng thấy và biết một người chị trên ngón tay ấy đeo tới... 2 nhẫn cưới! Không phải chuyện đùa đââu mà là một chuyện có thật cảm động lắm: Chị có 2 người chồng đều ra đi hy sinh trong thời chiến tranh, sau đó chị cứ ở vậy thờ chồng nên vẫn mang cả 2 chiếc nhẫn để lúc nào cũng tưởng nhớ đến người xưa, người chồng nào với chị cũng đều đáng kính trọng cả. Lạ một điều là cả 2 người chồng đều chỉ mới hứa hôn chưa chung sống với chị ngày nào thì đã vội bỏ mình trong cuộc chiến, một người ngoài chiến trường một người từ nhà tù. Và còn kỳ lạ hơn khi người đầu là sĩ quan quân y chế độ cũ tử trận đã khiến chị chán ghét chiến tranh chuyển qua hoạt động đấu tranh cho hòa bình từ đó mới gặp gỡ người chồng sau vốn là một… cán bộ cách mạng!

Câu chuyện nhẫõn cưới kể trên thật như một hình ảnh tượng trưng cho thân phận người đàn bà – qua đó là thân phận con người và cả dân tộc nữa – trong cuộc chiến tranh chia rẽ đã qua.

Tất cả họ – còn nhiều nhiều người như vậy nữa – đều là những người phụ nữ vô cùng lớn trong sự chịu đựng, thiệt thòi và mất mát đối với bản thân mình.

…………………………………………………………….

Thấy cô vợ vẫn có vẻ tiếc tiếc sao ấy, tôi bảo có gì đâu đi mua cái khác giống hệt vậy mà đeo vào liền được lãnh một cái lườm mắt sắc như dao cạo: “Cái mới nào cũng làm sao bằng được cái cũ!”. Đúng vậy, cho dẫu nhẫn hột xoàn chăng nữa cũng không thể thay thế được nó vì ấy là một món đồ nữ trang chứ đâu phải như “chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em”. Nhẫn hột xoàn do đó có khi đeo khi không chứ nhẫn cưới dẫu có 2-3 phân vẫn luôn luôn nằm thường trực ở ngón tay trái áp út đó của bất cứ người mẹ, người vợ nào.

Cao Huy Khanh

http://vanvietloc.googlepages.com/caohuykhanh3

Cùng một tác giả:

CHIẾC NHẪN CƯỚI CỦA MẸ TÔI

NÓI CHUYỆN GIÁO DỤC, NHỚ THẦY ĐÔNG HỒ

Cao Bá Quát:

NHỮNG CÂU HỎI VỀ CUỘC

THƠ BỆNH BÍCH KHÊ

Nguyễn Khuyến:NGƯỜI ĐAU MẮT

BẢN DANH SÁCH “ĐEN” CỦA TÚ XƯƠNG

SÔNG HƯƠNG LÀM ƯỚT CẢ ĐỜI TÔI

Thứ Ba, 8 tháng 1, 2008

NGUYỄN BẮC SƠN

NGUYỄN BẮC SƠN

lời bạt

nhà có mảng tường hoa

thơ: vũ hy triệu

thơ vũ hy triệu đọc xong thấy giống như tiếng nói mà lòng mình muốn nói, tiếng khóc mà lòng mình muốn khóc, tiếng ca Âm thầm thanh thản thấm đậm nhân tình, nhân nghĩa trong cõi phù sinh.

Thơ anh kết thật hay, bật sáng lên cái ý nghĩa Triết Đạo một cách tự nhiên như hoa trôi, nước chảy, nhạn bay rơi hình xuống khe nước ro re, gió lồng lộng trên đỉnh đời gió hú, tóc nhiều sợi hoa râm và một nụ cười ung dung thanh thản.

Thơ Triệu là một trái cây đã chín muồi tự tỏi mùi hương thầm kết tinh của một kiếp người khổ đau mà vẫn bao dung, đôn hậu và cái tinh thần triết hài (Humour) của một hiền nhân đứng bên bờ giải trình.

Nbs.